Những năm gần đây, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, cụm từ trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (The Extended Producer Responsibility – EPR) được nhiều người chú ý nhất là các doanh nghiệp có khối lượng bao bì sản phẩm thải ra môi trường ngày càng tăng.
Luật pháp nhiều nước đã quy định các nhà sản xuất không chỉ có “trách nhiệm” trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại thân thiện môi trường để tạo ra sản phẩm mà còn phải có trách nhiệm đến cùng trong việc phân loại, thu gom, xử lý sản phẩm của mình sau khi nó trở thành rác thải.
EPR là gì?
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất – EPR được hiểu là trách nhiệm của nhà sản xuất một loại sản phẩm được mở rộng tới giai đoạn thải bỏ trong vòng đời của sản phẩm đó. Cụ thể hơn nhà sản xuất có trách nhiệm quản lý các sản phẩm sau khi chúng trở thành rác thải bao gồm : thu gom, tiền xử lý như phân loại, tháo dỡ hoặc khử ô nhiễm; thu hồi hoặc cuối cùng là thải bỏ. Đại dịch Covid-19 đã gây thiệt hại to lớn về người và sự phát triển kinh tế trên quy mô toàn cầu. Để thích ứng và giảm tối đa ảnh hưởng tiêu cực của nó tới cuộc sống, lĩnh vực thương mại điện tử “có đất” để phát triển. Xu hường này đồng nghĩa với việc một khối lượng hàng hoá lớn được chuyển thông qua giao dịch trực tuyến, do vậy phát sinh khối lược lớn bao bì là bìa cát tông và ni-lông.
Sự đổi mới công nghệ đóng gói đã mở ra các kênh phân phối mới. Điều này giúp giảm lãng phí thực phẩm, cho phép hàng hóa được lưu trữ trong thời gian dài và vận chuyển đi xa. Nhờ có bao bì, hàng hóa và các tài nguyên có giá trị được bảo vệ và chi phí vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, ô nhiễm do thải bỏ bao bì không đúng cách đang là một vấn đề ngày càng nghiêm trọng và cần được giải quyết cấp bách bằng cách thiết kế các sản phẩm để dễ tái chế hơn và đầu tư vào hệ thống thu gom và tái chế. Các hệ thống này không thể được thiết lập nếu không có một cơ quan điều phối mạnh, với các nguồn quỹ minh bạch và ổn định. Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh tế thúc đẩy sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn bằng cách áp dụng ba nguyên tắc chính là ‘giảm thiểu’, ‘tái sử dụng’ và ‘tái chế’ để tạo ra một chuỗi giá trị tuần hoàn. Trái ngược với mô hình truyền thống tập trung vào khai thác, xử lý, phân phối, tiêu thụ và cuối cùng là thải bỏ tài nguyên, kinh tế tuần hoàn khuyến khích vòng đời tuần hoàn của tài nguyên trong nền kinh tế. Điều này giúp tối đa hóa các nguồn cung tài nguyên sẵn có, đồng thời tối thiểu hóa tác động tiêu cực đến môi trường. Do đó, nhu cầu quản lý rác thải theo mô hình EPR, đã và đang trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia, tổ chức.
Một trong những nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn là đòi hỏi phải có hành động ở tất cả các khâu của chuỗi giá trị sản phẩm. Vì vậy, trong chuỗi giá trị bao bì, EPR ngày càng được công nhận như một mô hình chủ chốt nhằm “khép kín chu trình”, do EPR buộc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình.
Để làm cho bao bì dễ tái sử dụng và tái chế hơn, cần kết hợp các sáng kiến và hỗ trợ ở giai đoạn sản xuất bao bì và bổ sung bởi các sáng kiến ở giai đoạn sau khi bao bì được sử dụng để cải thiện hệ thống thu gom, phân loại và tái chế. Có một thực tế là khu vực tư nhân tổ chức và chịu chi phí cung ứng hàng hóa. Nhưng trách nhiệm xử lý rác thải thường thuộc về khu vực công vốn thường có tình trạng là thiếu chặt chẽ về quy định và thiếu kinh phí vận hành, nhất là ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Theo các chuyên gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường mục tiêu của EPR là chia sẻ gánh nặng tài chính, hoặc một phần trách nhiệm quản lý chất thải rắn từ chính quyền địa phương và người nộp thuế nói chung sang cho nhà sản xuất; thúc đẩy cải tiến sản phẩm theo hướng tiết kiệm nguyên liệu, giảm sử dụng các dạng nguyên liệu độc hại, khó tái chế, tối ưu hoá thiết kế thuận tiện cho việc thu gom, phân loại, tháo dỡ và tái chế…; giúp tiết kiệm tài nguyên thông qua giảm chất thải, tăng tái chế; tạo ra các cơ hội kinh tế trong suốt các giai đoạn khác nhau của vòng đời sản phẩm, đặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường trong quản lý và xử lý chất thải.
EPR là một chính sách môi trường tuân theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, EPR yêu cầu các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về tác động tới môi trường mà sản phẩm của họ sẽ gây ra trong suốt chuỗi cung ứng, từ giai đoạn thiết kế đến thải bỏ.
Nguyên tắc hàng đầu của EPR là tìm ra các bên có khả năng ảnh hưởng hiệu quả nhất đến sự thay đổi theo hướng cải tiến sản phẩm và hệ thống sản phẩm. Do đó, nhà sản xuất được định nghĩa là người có quyền kiểm soát cao nhất đối với việc lựa chọn vật liệu và thiết kế của sản phẩm. Kinh nghiệm quốc tế khuyến nghị nhà sản xuất hay người có nghĩa vụ thường bao gồm: Chủ sở hữu thương hiệu; nhà nhập khẩu đầu tiên; người đóng gói bao bì (fillers) thay vì chính công ty sản xuất chính bao bì; đơn vị cung cấp nền tảng thương mại điện tử và có thể là các công ty chuyển phát bưu kiện (như đơn vị giao hàng và dịch vụ bưu chính) trong trường hợp thương mại điện tử xuyên biên giới. Trong một số trường hợp tại một số quốc gia, các đơn vị bán lẻ sử dụng bao gói bọc bên ngoài các sản phẩm bán ra (còn gọi là bao bì thứ hai) cũng có thể được coi là nhà sản xuất.
Trong quá trình vận hành hệ thống EPR cho phép nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình hoặc bằng cách cung cấp các nguồn tài chính cần thiết hoặc bắt đầu tiếp quản một số khía cạnh vận hành trong quy trình quản lý chất thải rắn từ các đô thị. Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc; hệ thống EPR có thể được thực hiện riêng lẻ hoặc theo tập thể. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy: Các hệ thống EPR của nhiều quốc gia có xu hướng tuân theo một số phương pháp tiếp cận: gồm hình thành một tổ chức thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất (Producer Responsibility – PRO) (duy nhất theo ngành hàng hoặc nhiều PRO trong cùng ngành hàng và cạnh tranh với nhau), hình thành quỹ do Chính phủ quản lý và vận hành, tín chỉ giao dịch bên cạnh việc các tổ chức tự thực hiện. Ngoài ra, nhà sản xuất có thể thực hiện trách nhiệm độc lập. Tuy nhiên, mô hình vận hành EPR với sự hình thành PRO là phổ biến nhất với nhiều ưu điểm trong việc chuyên môn hoá các hoạt động cũng như tối ưu hoá các chi phí.
Sự phát triển của EPR trên thế giới
Cách tiếp cận của EPR được ghi nhận từ rất sớm trên thế giới (như Bottle Bill được áp dụng ở Vermont, Mỹ từ năm 1953) nhưng chỉ đến năm 1990 EPR mới được Thomas Lindhqvist hệ thống hoá thành nguyên tắc và định nghĩa trong Báo cáo gửi Bộ Môi trường Thuỵ Điển về nghiên cứu tác động môi trường của các sản phẩm. Khác với cách tiếp cận truyền thống trong việc tìm kiếm giải pháp tài chính để xử lý vấn đề quản lý chất thải và tiêu chuẩn tái chế, EPR giúp Chính phủ đạt được mục tiêu mà không cần tăng thuế hay phí. Điều này khiến cho EPR trở nên hấp dẫn và phát triển nhanh chóng trên thế giới nơi mối quan tâm vào các chính sách quản lý chất thải ở nhiều quốc gia ngày càng tăng.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) thống kê từ năm 1970 đến 2015, có đến 384 chính sách EPR đã được phát triển, trong đó, hơn 70% là từ năm 2001. Châu Âu và Bắc Mỹ là nơi áp dụng EPR cao nhất, chiếm tới 90% số chính sách EPR đã phát triển. Các sản phẩm áp dụng EPR cũng rất đa dạng, trong đó nhiều nhất là các thiết bị điện, săm lốp, bao bì, các phương tiện giao thông, pin, ắc quy.
Chia sẻ về thành công áp dụng EPR tại Hàn Quốc, TS.Kim In Hwan, nguyên Thứ trưởng Bộ Môi trường Hàn Quốc cho biết: Sau khi áp dụng EPR ở Hàn Quốc, chất thải rắn sinh hoạt được tái chế tăng 72% từ 1.047 nghìn tấn năm 2003 lên 1.675 nghìn tấn năm 2015; 93% bao bì màng nhựa được tái chế trong năm 2016 (từ 172.000 tấn năm 2003 lên 851.000 tấn năm 2016).
Các quốc gia châu Âu, cùng với các quốc gia thành viên OECD khác, đã có nhiều kinh nghiệm sử dụng hệ thống EPR cho các loại chất thải khác nhau, trong đó có chất thải bao bì. Chính phủ một số quốc gia có thu nhập thấp và trung bình cũng đã bắt đầu đưa ra hoặc xây dựng các quy định trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, một số công ty và hiệp hội doanh nghiệp đã khởi động các sáng kiến tự nguyện và cam kết giảm lượng rác thải nhựa xả ra môi trường. Đây là sáng kiến có tính khả thi cao vì đó là tổ chức của các nhà sản xuất có trách nhiệm khi sản phẩm của mình thành rác thải (PRO). Ở một số quốc gia, các ngành sản xuất hàng tiêu dùng đã thành lập các hiệp hội để xác định các hành động tập thể mà họ có thể thực hiện nhằm ngăn chặn và quản lý chất thải nhựa, đồng thời lập kế hoạch phát triển các hệ thống riêng của mình.
Hệ thống EPR dựa trên trách nhiệm chung đòi hỏi phải có một tổ chức giữ vai trò trung tâm trong hệ thống EPR để điều phối hoạt động của hệ thống hoặc nhà vận hành hệ thống và đảm nhận thực hiện trách nhiệm của các công ty có nghĩa vụ theo cơ chế trách nhiệm tập thể. Tổ chức này được gọi là tổ chức trách nhiệm nhà sản xuất. Điều này cho phép các công ty có nghĩa vụ cùng chịu trách nhiệm về sản phẩm của họ và chất thải bao bì mà họ tạo ra thông qua PRO.
Tính ưu việt của PRO đó là khi Pro đứng ra tổ chức quản lý chất thải bao bì chung cho các công ty tham gia hệ thống thì sẽ không cần tiến hành phân loại theo nhãn hàng nữa. Nhờ vậy, có thể giảm đáng kể chi phí và vấn đề hậu cần liên quan đến quản lý chất thải. Vì vậy, ở hầu hết các nước, chất thải bao bì hộ gia đình được quản lý bằng hệ thống EPR dựa trên trách nhiệm chung. Như vậy, có thể nói rằng hệ thống EPR dựa trên trách nhiệm chung có sự tham gia của một tác nhân “mới” là PRO (so với EPR dựa trên trách nhiệm riêng).
Các nhà sản xuất, nhập khẩu có quyền lựa chọn cách thực hiện mô hình EPR phù hợp nhất cho mình, có thể riêng lẻ hoặc theo nhóm. PRO là hình thức thực hiện hiện mô hình EPR theo nhóm. PRO là tổ chức do nhà sản xuất, nhập khẩu thành lập hoặc ủy quyền nên họ sẽ quyết định mô hình, cách vận hành của PRO. Quyết định về mô hình phù hợp nhất cho một hệ thống riêng lẻ nên được thảo luận trong khuôn khổ cuộc đối thoại chính sách với sự tham gia của các tác nhân liên quan, và các nội dung chi tiết của mô hình được chọn phải rõ ràng đối với tất cả các tác nhân tham gia.
Ông Fausto Tazzi, Phó Chủ tịch PRO Việt Nam cho biết: “PRO Việt Nam hiện nay với sự tham gia của nhiều nhà sản xuất đồ uống thực phẩm, bao bì và phân phối hàng đầu đưa ra những cam kết mạnh mẽ nhằm đảm bảo tính bền vững trong việc sử dụng bao bì đóng gói. Nhìn chung, các hệ thống EPR nhắm tới việc tái chế chất thải bao bì sau tiêu dùng hướng đến tăng trưởng tỷ lệ tái chế, đồng thời duy trì một sân chơi bình đẳng cho tất cả các vật liệu đóng gói. Chúng tôi vô cùng cảm kích khi nhận được cơ hội đưa ra quan điểm làm thế nào EPR có thể trở thành công cụ chính sách hiệu quả giúp giảm tỷ lệ chất thải và tăng tỷ lệ tái chế bao bì”.
Đối với nước ta, để xây dựng EPR phù hợp với nền kinh tế tuần hoàn các chuyên gia nhấn mạnh cần xây dựng hoàn thiện hệ thống EPR ở Việt Nam theo hướng xác định rõ các sản phẩm sau sử dụng phải thu hồi và tỷ lệ thu hồi bắt buộc đối với từng loại sản phẩm thải bỏ; đồng thời quy định cơ chế tài chính mà nguồn hình thành là nhà sản xuất và nhà nhập khẩu một cách minh bạch và có kiểm soát để thực hiện việc thu, nộp, hỗ trợ được hiệu quả. Mô hình EPR trên thế giới rất đa dạng tuy nhiên, ở Việt Nam cần có sự quản lý giám sát của nhà nước cùng với sự tham gia mạnh mẽ của khối tư nhân trong hệ thống EPR ở Việt Nam.
Tránh đi vào vết xe đổ của một số quốc gia khi xây dựng EPR, việc triển khai EPR ở nước ta cần được thực hiện từng bước, có lộ trình cụ thể gắn liền với việc phân loại rác tại nguồn và nâng cao nhận thức cộng đồng về việc phân loại, thải bỏ và thu gom rác một cách quy củ và tự giác. Đây là cơ chế quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, do vậy cần thiết phải có sự đồng bộ với thị trường tái chế với các tổ chức thu gom, tái chế chuyên nghiệp, bên cạnh đó cần phải có sự hỗ trợ khu vực thu gom tái chế phi chính thức hiện nay ở Việt Nam (mà ta thường gọi là đồng nát và làng nghề tái chế chất thải) nâng cao năng lực và tham gia hiệu quả, đồng bộ vào hệ thống EPR.
Hạ Vy
(Theo Môi trường & Đô thị điện tử)
Ảnh: Người tiêu dùng mua sắm tại Co.opmart quan tâm đến chương trình “Ngày hội tái chế 2022”.