Tìm giải pháp giảm thiểu ‘thảm họa’ sạt lở đất ở miền Trung

Ngày 16/1, tại TP.Hội An (tỉnh Quảng Nam), Tổng hội Xây dựng Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức Hội thảo “Thiên tai lũ quét, sạt lở đất ở Khu vực miền Trung, nguyên nhân và giải pháp giảm thiểu”.

Ông Lê Trí Thanh – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, ngay sau bão, lũ, tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt công tác ứng phó, cứu hộ cứu nạn.

“Đó là những giải pháp tạm thời, trước mắt, chưa có một nghiên cứu tổng thể, đề xuất được các giải pháp kỹ thuật khả thi để giảm thiểu lũ quét, sạt lở” – ông Thanh nói.

Báo cáo của tỉnh Quảng Nam cho thấy, những nguyên nhân xảy ra lũ quét, sạt lở đất vừa qua ở tỉnh là cường độ mưa lớn kéo dài tại khu vực đồi núi cao.

Cụ thể trong tháng 10/2020, tại xã Trà Leng, huyện Nam Trà My đã xuất hiện 27 ngày mưa, với tổng lượng mưa đạt 1.512 mm, lượng mưa ngày lớn nhất đạt 254.4 mm vào ngày 28/10 với cường suất mưa đạt 41.4 mm/giờ.

Lượng mưa rất lớn kéo dài nhiều ngày như trên đã làm cho đất bão hòa nước, mất dần liên kết gây sạt lở, tạo lực trượt kéo xuống phía dưới. Vả lại địa hình thấp dần ra biển với độ dốc lớn, cộng với địa chất phức tạp cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng sạt lở nghiêm trọng.

Phát biểu tại hội thảo, TS Trần Quang Hoài – Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai cho hay, thiên tai đã và đang diễn ra ngày càng khốc liệt, bất thường và vượt lịch sử kể cả về số lượng, cường độ, phạm vi, đặc biệt là thảm họa sạt lở.

Theo TS Hoài, địa hình đồi núi khu vực miền Trung có độ dốc cao, chia cắt mạnh, kết cấu đất vùng núi phần lớn là bở rời, dễ sạt trượt kết hợp với mưa vượt mức lịch sử đã khiến lũ tập trung nhanh, nguy cơ cao xảy ra sạt lở đất, lũ quét.

Trong khi đó, nhận thức và mức độ quan tâm của chính quyền và người dân một số nơi còn hạn chế nên chưa đầu tư cho công tác phòng chống thiên tai.

“Trang thiết bị, cơ sở vật chất thiếu tính chuyên nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu trong công tác còn hạn chế dẫn đến lúng túng, bị động trong ứng phó, khắc phục hậu quả với tình hình huống thiên tai lớn, trên diện rộng”, TS Hoài nhận định.

Ông Đặng Việt Dũng – Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam thông tin, năm 2020, đồng bào miền Trung hứng chịu thiên tai bão, lũ liên tiếp xảy ra trên diện rộng, với thời gian kéo dài, cường độ rất mạnh, vượt mức lịch sử.

Đặc biệt, nhiều vụ sạt lở đất rất nghiêm trọng tại: Thủy điện Rào Trăng 3, Trạm Kiểm lâm số 67 (tỉnh Thừa Thiên – Huế); Đoàn Kinh tế Quốc phòng 337 (tỉnh Quảng Trị); Trà Leng và Trà Vân, huyện Nam Trà My và Phước Lộc, huyện Phước Sơn (tỉnh Quảng Nam)…, cướp đi sinh mạng của hàng trăm người dân và hàng chục cán bộ, chiến sĩ. Sạt lở đất và lũ quét gây thiệt hại ước tính trên 30 nghìn tỉ đồng.

“Hội thảo lần này nhằm tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm từ thực tiễn phòng chống thiên tai của chính quyền địa phương. Hội thảo cũng thảo luận về các giải pháp phòng chống hiệu quả đã thực hiện; chia sẻ kinh nghiệm về tổ chức bộ máy, lực lượng, cơ chế điều phối của các Bộ, ngành, địa phương đối với công tác phòng, chống lũ quét, sạt lở đất.

Ngoài ra, các chuyên gia sẽ đề xuất giải pháp phòng, chống nhằm giảm thiểu thiệt hại; giới thiệu những kết quả nghiên cứu về ứng dụng công nghệ tiên tiến phục vụ công tác giám sát, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất như ảnh vệ tinh, công nghệ AI, IOT, WSN…”, ông Dũng nói.

Theo TS Hoàng Ngọc Tuấn – Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên, kết quả nghiên cứu tại Quảng Nam đã chỉ rõ độ dốc, mưa lớn kéo dài, địa chất, chất lượng của thảm phủ rừng và cơ sở hạ tầng là các nguyên nhân chính tác động đến sạt lở đất. Phần lớn các trận sạt lở đất xảy ra vào mùa mưa của những năm mưa nhiều, tổng lượng mưa cao.

“Các vụ sạt lở đất thường xuất hiện trùng hoặc sau một ngày so với thời gian xuất hiện mưa vào ngày lớn nhất trong tháng. Trước khi xảy ra sạt lở đất trên khu vực đã có mưa kéo dài từ 3-5 ngày” – ông Tuấn dẫn giải.

Theo ông Tuấn, phải có giải pháp phi công trình và công trình, rà soát đánh giá mức độ an toàn đối với khu vực dân cư có nguy cơ cao bị sạt lở đất, lũ quét như đã xảy ra trong năm 2020 để có phương án di dời hẳn hay di dời tạm thời.

PGS.TS Lã Văn Chú – Chuyên gia nghiên cứu lũ quét cho hay, ở nước ta đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào dự báo chính xác được thời điểm xuất hiện lũ quét cũng như phạm vi và mức độ của nó.

Trong khi đó, ở hầu hết các nước, cảnh báo và dự báo lũ quét được xem như một biện pháp đặc biệt, rất quan trọng trong số các biện pháp phi công trình phòng tránh lũ quét.

Theo PGS.TS Lã Văn Chú, các khu vực miền núi tại miền Trung cần áp dụng phương pháp cảnh báo lũ quét thời gian thực. Đây là phương pháp cảnh báo sự xuất hiện của lũ quét qua các chỉ số mưa rút ra từ số liệu về cường độ mưa và tổng lượng mưa thu thập được từ các trận lũ quét, phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lượng mưa lũy tích từ khi mưa và cường độ mưa tại thời điểm phát sinh lũ quét.

“Phương pháp trên được chọn lựa theo chỉ dẫn của Tổ chức Khí tượng Thế giới nên vừa có tính khả thi, vừa có hiệu quả trong điều kiện ở nước ta”, PGS.TS Lã Văn Chú nói.

Nhật Hạ – Tạp chí KTMT

Theo Kinh tế Môi trường

Ảnh: Hiện trường vụ sạt lở đất ở xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. (Ảnh: Internet)

Xem bài viết gốc tại đây:

https://kinhtemoitruong.vn/tim-giai-phap-giam-thieu-tham-hoa-sat-lo-dat-o-mien-trung-52529.html