Điều quan ngại nhất là người dân vẫn dùng nước mưa chảy từ mái nhà tấm lợp Amiang để ăn uống, các tấm lợp vỡ vụn vẫn được dùng làm nền nhà, nền sân, rải đường đi, ngổn ngang cả đầu nguồn nước.
Ngày 04/6/202, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 861/QĐ-TTg phê duyệt danh sách 3.434 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn 51 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm: 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551; Ủy ban Dân tộc ban hành Quyết định 433/QĐ-UBDT ngày 18/6/2021 Phê duyệt danh sách 2.027 thôn đặc biệt khó khăn (ĐBKK) vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2025 của 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tuy nhiên việc phân định này chỉ nhằm phục vụ tập trung chính sách cho vùng khó khăn nhất, còn đánh giá việc sử dụng tấm lợp có chứa Amiang thì phải khảo sát đánh giá rộng lớn hớn, tức là toàn bộ vùng có người DTTS sinh sống
Vùng DTTS có 5.266 xã, tập trung ở 51 tỉnh, thành phố, đông nhất là khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Duyên hải Miền Trung, Tây Nam Bộ. Cơ cấu kinh tế vùng DTTS, MN và vùng KT-XH ĐBKK chủ yếu vẫn là nông, lâm nghiệp (tỷ trọng nông, lâm nghiệp chiếm trên 50%), cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn thấp kém, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Đồng bào các DTTS được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức rất thấp so với bình quân chung cả nước: còn hơn 21% người DTTS trên 15 tuổi chưa đọc thông viết thạo tiếng Việt; khoảng 30% học sinh DTTS chưa được đi học đúng độ tuổi; tỷ lệ khám bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế của người DTTS mới đạt 44,8%; gần 1/3 số hộ DTTS chưa được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh; hơn 15,3% số hộ gia đình người DTTS ở nhà tạm, đặc biệt có 14 dân tộc có tỷ lệ nhà ở tạm gần 50%; 2/3 số hộ DTTS chưa có nhà xí hợp vệ sinh;
Vùng DTTS đã và đang là “lõi nghèo của cả nước”: thu nhập bình quân đầu người của DTTS chỉ bằng khoảng 30% so với bình quân chung cả nước. Dân số DTTS chiếm 14,6% dân số cả nước nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 63,66% hộ nghèo của cả nước. Một số nhóm DTTS có tỷ lệ hộ nghèo đang ở mức rất cao lên đến 70 – 80% như: Ơ Đu, Co, Khơ Mú, Xinh Mun, La Ha, Kháng, Mông và Xơ Đăng….
Vùng DTTS chủ yếu là núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng kém nhất cả nước, xuất phát điểm rất thấp; biến đổi khí hậu, sự cố môi trường (Sạt lở đất, xâm nhập mặn ở đồng bằng Sông Cửu long; lũ ống, lũ quét ở các tỉnh Tây Bắc; hạn hán ở các tỉnh Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung…) diễn ra nghiêm trọng và khó lường… Chi phí sản xuất, lưu thông hàng hóa lớn nên rất khó khăn để thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển KT-XH vùng DTTS&MN và vùng có điều kiện ĐBKK, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của vùng DTTS.
Chính vì đặc điểm trên mà với lợi thế giá rẻ, tấm lợp có chứa Amiang chảy dồn về vùng DTTS, theo khảo sát trực tiếp của Trung tâm HRC phối hợp Tổ chức Actionaid, APHEDA, tại huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng năm 2019, thì có 35% số hộ gia đình vẫn lợp nhà ở, 60% số hộ vẫn dùng tâm lợp này vào các công trình phụ của gia đình. Tại huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, khoảng 20% dùng lợp nhà, 35% lợp công trình phụ, tại tỉnh Lạng Sơn, các huyện vùng Biên giới sử dụng lợp nhà 25%, 40% lợp các công trình phụ.
Khảo sát tại huyện Nho Quan, Ninh bình là huyện miền núi thấp, có người mường sinh sống, nhưng người dân có hiểu biết tác hại của Amiang nên chỉ có khoảng 20% số hộ lợp công trình phụ trợ.
Mới cuối tháng 9/2022, Trung tâm HRC có chuyến khảo sát tại huyện Mai Châu, Hòa Bình, Các Xã Hang Kia, Pà Cò vẫn còn sử dụng khá phổ biến tấm lợp Phibrocimen, Chúng tôi vẫn còn lưu giữ các tấm hình chụp được.
Điều quan ngại nhất là người dân vẫn dùng nước mưa chảy từ mái nhà tấm lợp Amiang để ăn uống, các tấm lợp vỡ vụn vẫn được dùng làm nền nhà, nền sân, rải đường đi, ngổn ngang cả đầu nguồn nước.
Qua trao đổi trực tiếp với ngươi dân, sau khi nghe tác hại của Amiang, họ đặt ra các câu hỏi :
-Tại sao tấm lợp này người dưới xuôi không dùng nữa mà đưa lên miền núi?
-Tại sao nhà nước lại đưa tấm lợp này vào các chương trình trợ giúp nhân đạo cho miền núi?
-Bây giờ việc thu gom, xử lý như thế nào khi vỡ vụn, trôi nổi?
-Chính phủ nói có lộ trình thay thế, nhưng tại sao cứ kéo dài mãi ?!
Trước những bức xúc của nhân dân, chúng tôi đang tạm hướng dẫn người dân đang dùng tấm lợp không được dùng nước từ mái nhà chảy xuống, kể cả gia súc, gia cầm; không cho nước mưa này chảy vào giếng và nguồn nước của làng bản, thu gom chôn lấp các tấm vỡ vụn ở khu vực xa nguồn nước, xa khu dân cư. Những gia đình có điều kiện thì thay thế, không dùng tấm lợp loại này.
Từ thực tế khảo sát ở cả vùng núi cao và vùng thấp, nông thôn miền xuôi, chúng tôi đưa ra mấy kết luận :
1. Dân ở vùng Đô thị không dùng loại tấm lợp này, dân vùng Nông thôn ở dưới xuôi chỉ còn khoảng 5% dùng lợp công trình phụ trợ. Như vậy 95% tấm lợp có chứa Amiang dồn về vùng DTTS.
Chỉ nơi dân trí thấp, nghèo, quá khó khăn mới bị lợi dụng để tiêu thụ loại sản phẩm độc hại này
2. Ngay tại các huyện vùng DTTS, thì những gia đình khá và trung bình cũng loại trừ dần tấm lợp này, như vậy đối tượng tập trung vào người DTTS nghèo khổ, phải cam chịu, mà chưa tìm ra lối thoát.
Từ cảnh báo của Tổ chức Y tế thế giới, Tổ chức Lao dộng Quốc tế, tổ chức chống ung thư, Từ kết quả khảo sát của Bộ Y tế về các bệnh ung thư, nhất là ung thư Trung Biểu mô, chúng tôi kiến nghị Nhà nước :
1- Phải đặt lợi ích sức khỏe của nhân dân lên trên hết, có chủ trương hỗ trợ các Doanh nhiệp đang Sản xuất tấm lợp có chứa Amiang chuyển đổi sản phẩm thây thé. Trợ giá cho những loại tấm lợp không sử dụng Amiang
2- Có kế hoạch thu gom, xử lý sản phẩm có chứa Amiang, không để ảnh hưởng môi trường
3- Không cho phép các chương trình chính sách dân tộc, các chương trình nhân đạo hỗ trợ tấm lợp này cho đồng bào. Phải nhận thức được việc đưa loại tấm lợp mà ở miền xuôi không tiêu thụ được mà cứ đẩy lên cho người nghèo vùng DTTS là một hành động phi nhân tính.
4- Yêu cầu các Doanh nghiệp trong thời gian chưa chuyển đổi sản phẩm thì phải dán nhãn cảnh báo nguy cơ độc hại của tấm lợp có chứa Amiang, như dán nhãn Thuốc lá.
5- Chính phủ nên xây dựng chính sách thay thế dần tấm lợp này ở vùng DTTS.
Hơn 20 năm qua, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Tổ chức nghiên cứu ung thư Quốc tế (IARC), đã tập trung nhiều nhà khoa học nghiên cứu và tổ chức nhiều hội thảo Quốc tế để đi đến kết luận : Amiang, kể cả Amiang Trắng là chất gây ung thư, nhất là ung thư phổi, thanh quản, buồng trứng, ung thư trung biểu mô và bệnh bụi phổi Amiang, vì vậy phải ngừng sử dụng tất cả các dạng Amiang, đó là cách thức hiệu quả nhất để loại trừ các căn bệnh liên quan đến Amiang.
Tài liệu Tham khảo:
Các báo cáo tại các Hội Thảo về AMIANG tại Việt Nam
Nghiên Cứu Của PGS-TS Nguyễn An Lương
Báo cáo khảo sát của Các ban DT và HRC tại Cao Bằng, Lạng Sơn, Phú Thọ, Ninh Bình, Hòa Bình, Nghệ An
Các bài đăng trên báo MT và ĐT, SK ĐS, Người đại Biểu ND, PL, Thanh Niên…
TS. Hoàng Xuân Lương
Nguyên Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Chính phủ