Xác định sơ bộ tổng mức đầu tư theo thiết kế là cơ sở để ước tính chi phí đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025
Trong báo cáo vừa gửi Quốc hội xin ý kiến về dự án Xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 (giai đoạn 2), Kiểm toán Nhà nước (KTNN) cho biết theo tờ trình của Chính phủ, sơ bộ tổng mức đầu tư dự án quy mô 4 làn xe là 146.990 tỉ đồng cho 729 km – bình quân 175,4 tỉ đồng/km, không tính chi phí giải phóng mặt bằng.
Rà soát kỹ sơ bộ tổng mức đầu tư
Tuy nhiên, theo tính toán của KTNN, qua xem xét suất đầu tư các dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020 (giai đoạn 1), tổng mức đầu tư dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2 là 130.605 tỉ đồng – giảm 16.330 tỉ đồng so với tờ trình của Chính phủ, tức bình quân 152,9 tỉ đồng/km, không bao gồm giải phóng mặt bằng. KTNN đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) và các cơ quan liên quan rà soát kỹ sơ bộ tổng mức đầu tư, tính khả thi của các dự án.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể vừa có báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, giải trình báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2. Một trong những vấn đề nổi bật được giải trình tại báo cáo lần này chính là suất đầu tư dự án cao tốc.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết theo quy định của Luật Xây dựng, trường hợp phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng thì việc xác định sơ bộ tổng mức đầu tư theo thiết kế là cơ sở để ước tính chi phí. Tổng mức đầu tư xây dựng được ước tính trên cơ sở quy mô, công suất hoặc năng lực phục vụ theo phương án thiết kế sơ bộ của dự án và suất vốn đầu tư xây dựng hoặc dữ liệu chi phí của các dự án tương tự đã thực hiện, có sự phân tích, đánh giá để điều chỉnh quy đổi về mặt bằng giá thị trường phù hợp với địa điểm xây dựng, bổ sung những chi phí cần thiết khác của dự án. Đặc biệt là xem xét yếu tố biến động giá của một số vật liệu chủ yếu như vật liệu đắp, thép xây dựng, xăng dầu…
Cụ thể, theo báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt giai đoạn 2017 – 2020, 4 dự án thành phần đoạn Mai Sơn (tỉnh Ninh Bình) – Bãi Vọt (tỉnh Hà Tĩnh) có suất đầu tư bình quân 190 tỉ đồng/km. Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi giai đoạn 2021- 2025, 10 dự án thành phần trên đoạn Bãi Vọt – Cam Lộ (tỉnh Quảng Trị) và đoạn Quảng Ngãi – Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) có suất đầu tư bình quân 194 tỉ đồng/km. Theo báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt, đoạn Mỹ Thuận – Cần Thơ có suất đầu tư bình quân 210 tỉ đồng/km. Theo Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi giai đoạn 2021 – 2025, đoạn Cần Thơ – Cà Mau có suất đầu tư bình quân 253 tỉ đồng/km…
“Mặc dù đoạn Mỹ Thuận – Cần Thơ và Cần Thơ – Cà Mau có đặc điểm địa chất tương đồng, song số lượng các công trình cầu trên đoạn Mỹ Thuận – Cần Thơ chỉ chiếm 4,4% chiều dài, thấp hơn nhiều so với 9,2% chiều dài tuyến trên đoạn Cần Thơ – Hậu Giang” – Bộ GTVT giải thích.
Chuyển nhượng quyền thu phí để thu hồi vốn
Bộ trưởng Bộ GTVT cho rằng tùy thuộc vào từng giai đoạn, quy định về mức độ chính xác đối với tổng mức đầu tư cũng khác nhau. Vì vậy, việc so sánh như trên (giữa nghiên cứu tiền khả thi so với nghiên cứu khả thi) cũng chỉ mang tính chất tương đối.
“Sơ bộ tổng mức đầu tư bước nghiên cứu tiền khả thi luôn mang tính đường bao, để bảo đảm tổng mức đầu tư bước nghiên cứu khả thi không bị vượt, không phải điều chỉnh chủ trương đầu tư theo quy định pháp luật. Vì vậy, sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án được xác định theo đúng quy định của pháp luật về xây dựng, đáp ứng độ tin cậy trong bước nghiên cứu tiền khả thi” – Bộ GTVT cho biết.
Trong bước tiếp theo, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ GTVT tổ chức khảo sát chi tiết về địa hình, địa chất, thủy văn, điều kiện cung cấp vật liệu xây dựng, trên cơ sở khối lượng theo thiết kế cơ sở, đơn giá, định mức, các chính sách của nhà nước… Việc này nhằm làm cơ sở để xây dựng tổng mức đầu tư bảo đảm chặt chẽ theo quy định của pháp luật về quản lý chi phí đầu tư xây dựng, làm cơ sở để bố trí vốn đầu tư.
Theo nội dung tờ trình của Chính phủ, sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2 khoảng 146.990 tỉ đồng. Trong đó, chi phí giải phóng mặt bằng, tái định cư khoảng 19.097 tỉ đồng (đã dự trù chi phí trồng rừng thay thế, hỗ trợ chuyển đổi đất lúa 2 vụ…).
Chính phủ cho biết sau khi các dự án hoàn thành sẽ tổ chức thu phí để thu hồi vốn nhà nước thông qua hình thức chuyển nhượng quyền thu phí trong một thời hạn nhất định (khoảng 3 – 5 năm hoặc 10 năm). Mức phí dịch vụ sẽ được Chính phủ tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước, tổ chức nhận chuyển nhượng quyền thu phí và người sử dụng dịch vụ. Trường hợp nhượng quyền thu phí không thành công, Chính phủ sẽ nghiên cứu áp dụng hình thức thuê dịch vụ thu phí từ các nhà cung cấp đang triển khai như với Công ty TNHH Thu phí tự động (VETC), VDTC (Viettel)… để thu hồi vốn nhà nước.
Việc thu phí dịch vụ sẽ được Chính phủ triển khai liên thông trên toàn bộ 12 dự án giai đoạn 2021 – 2025 và các dự án giai đoạn 2017 – 2020. Hình thức thu phí điện tử tự động không dừng sẽ được áp dụng.
Năm 2026 sẽ đưa dự án vào khai thác Chính phủ dự kiến chuẩn bị dự án vào năm 2021 – 2022; thiết kế kỹ thuật, dự toán và thực hiện giải phóng mặt bằng, tái định cư năm 2022 – 2023; khởi công năm 2023, cơ bản hoàn thành năm 2025 và sẽ hoàn thành đưa vào khai thác năm 2026. |
Văn Duẩn – Báo NLĐ
Theo Người Lao Động
Ảnh: Tuyến cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn đã hoàn thành, đưa vào sử dụng. Ảnh: QUANG THÀNH
Xem bài viết gốc tại đây:
https://nld.com.vn/thoi-su/suat-dau-tu-cao-toc-bac-nam-cao-hay-thap-20220109195141156.htm