Phát triển thị trường khoa học công nghệ

Sau 5 năm thực hiện, Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến năm 2020 đã mang lại những tác động tích cực về mặt khoa học, công nghệ, kinh tế – xã hội và tính liên kết lan tỏa cao

Đặc biệt, Chương trình đã tạo được môi trường pháp lý về thị trường khoa học và công nghệ dần được hoàn thiện, thích ứng hơn với kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

Những kết quả bước đầu

Ở các nước phát triển, thị trường khoa học và công nghệ đã hình thành và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Tại Việt Nam, Đề án “Tái cơ cấu ngành Khoa học và Công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng góp phần phát triển kinh tế” đã đề ra các giải pháp thực hiện. Trong đó, phát triển thị trường khoa học và công nghệ là một giải pháp quan trọng.

Tháng 11-2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến năm 2020 (gọi tắt là Chương trình 2075) để từng bước phát triển thị trường khoa học và công nghệ.

Chương trình 2075 nhận được nhiều phản hồi tích cực của các đơn vị tham gia. Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng, Chương trình 2075 bắt đầu thực hiện từ năm 2015, đặt mục tiêu tăng giá trị giao dịch mua bán các sản phẩm và dịch vụ khoa học và công nghệ trên thị trường; tăng tỷ trọng giao dịch mua bán tài sản trí tuệ như giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật; thiết lập mạng lưới sàn giao dịch công nghệ kèm theo hệ thống tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ hỗ trợ, trọng tâm là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho biết: Sau 5 năm thực hiện, Chương trình 2075 đã có 25 sản phẩm được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (giai đoạn 2016-2020); 1.200 hợp đồng được ký kết với giá trị gần 1.000 tỷ đồng (giai đoạn 2015-2018); tổ chức 1.000 phiên kết nối cung – cầu, kết nối đầu tư cho 5.000 tổ chức (giai đoạn 2016-2018)…

“Chương trình đã tạo được môi trường pháp lý về thị trường khoa học và công nghệ, giúp thúc đẩy hoạt động dịch vụ trung gian của thị trường khoa học và công nghệ; hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ; nâng cao nhận thức của xã hội về thương mại hóa kết quả nghiên cứu”, ông Phạm Đức Nghiệm cho biết thêm.

Đến nay, Chương trình 2075 đã phê duyệt được 63 nhiệm vụ trong số 500 đề xuất đăng ký với tổng kinh phí 340 tỷ đồng, trong đó 194 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước (55%), còn lại là đối ứng từ các doanh nghiệp tham gia. Các nhiệm vụ tập trung vào 5 nhóm chính: Phát triển thị trường công nghệ (chợ công nghệ, thiết bị – Techmart), kết nối cung – cầu công nghệ (Techdemo), ngày hội khởi nghiệp công nghệ (Techfest), triển lãm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông (ICT COMM)…; hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ; phát triển, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian; nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ…

GS.TS Nguyễn Thị Lan, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết, thời gian qua, Học viện đã được Chương trình 2075 hỗ trợ thành công một số dự án thương mại hóa công nghệ, như: Sản phẩm hạt gốm xốp kỹ thuật phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô thị; công nghệ sản xuất bầu ươm cây theo phương pháp gieo hạt và giâm cành phục vụ sản xuất cây giống quy mô hàng hóa… Chương trình cũng hỗ trợ Học viện hình thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo nông nghiệp.

Thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ [2]

Chương trình 2075 nhận được nhiều phản hồi tích cực của các đơn vị tham gia. Tuy nhiên, việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Theo ông Phạm Đức Nghiệm, khung pháp lý cho việc tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc Chương trình chưa đồng bộ với các văn bản theo pháp luật đầu tư, dẫn đến tính không khả thi trong việc triển khai các dự án thành lập, nâng cấp tổ chức trung gian, đặc biệt là các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Thủ tục hành chính cho việc xét duyệt thẩm định nhiệm vụ thuộc Chương trình còn rườm rà…

Phát triển mạnh mẽ và toàn diện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo… cũng là những mục tiêu quan trọng phải hoàn thành. Ảnh minh họa. Nguồn: Tư liệu

“Việc thúc đẩy liên kết và chuyển giao công nghệ giữa viện, trường với doanh nghiệp vẫn là một bài toán khó. Chỉ 5,7% doanh nghiệp được hỏi cho biết tìm đến viện, trường khi có nhu cầu ứng dụng đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm”, ông Phạm Đức Nghiệm cho biết.

Đổi mới và sáng tạo

Mục tiêu phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sang tạo nhằm tạo bắt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cùng với đó xây dựng và phát triển các thể chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, tiến tới làm chủ một số công nghệ tiên tiến, công nghệ lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển mạnh mẽ và toàn diện hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo… cũng là những mục tiêu quan trọng phải hoàn thành.

Trước mắt, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung những chương trình góp phần thiết kế nền tảng cho đổi mới sáng tạo, ví dụ như: Chương trình trí tuệ nhân tạo (AI) và Hệ tri thức Việt số hóa. Đây là những chương trình mang tính nền tảng, bởi mọi quốc gia khi phát triển trí tuệ nhân tạo và tiến hành chuyển đổi số đều phải có cơ sở dữ liệu được xây dựng khoa học, bài bản, tin cậy, kết nối cả nước, bao phủ các lĩnh vực khác nhau.

Phát huy truyền thống đoàn kết, đổi mới, năng động, sáng tạo, nâng cao năng lực, sức chiến đấu, Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ phấn đấu trong nhiệm kỳ 2020-2025 tiếp tục được xây dựng và phát triển vững mạnh, gắn liền với thực hiện các nghị quyết của Trung ương, như Nghị quyết Trung ương IV về xây dựng Đảng…, thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên, phấn đấu xem xét, kết nạp 350 đảng viên trở lên trong nhiệm kỳ.

Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia

Để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam.

Một trong những giải pháp có ý nghĩa tạo động lực, đó là tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia; nâng cao tiềm lực, trình độ khoa học và công nghệ trong nước để triển khai các hướng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, tập trung phát triển công nghệ có khả năng ứng dụng cao; tiếp tục phát triển hệ thống tổ chức, nhân lực khoa học, công nghệ; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở nghiên cứu, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các khu công nghệ cao; phát huy vai trò của các quỹ về khoa học và công nghệ trong thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao công nghệ…

Bên cạnh đó là phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với doanh nghiệp là trung tâm, phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp công nghệ cao; tăng cường liên kết doanh nghiệp với viện nghiên cứu, trường đại học, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực của doanh nghiệp về tiếp thu, làm chủ và từng bước tham gia tạo ra công nghệ mới; đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học và công nghệ, kết nối hiệu quả các sàn giao dịch công nghệ quốc gia với các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ của địa phương.

Đồng thời, tăng cường hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; mở rộng, nâng cao hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế; tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; tăng cường bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy hoạt động sáng tạo, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ…

Cùng với đó là tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh; phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng ứng dụng công nghệ cao; phát triển mạnh khu vực dịch vụ dựa trên nền tảng kinh tế số và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại; thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…[1]

Hiện, thị trường khoa học và công nghệ bước đầu đã phát huy vai trò nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Song, công tác phát triển thị trường khoa học và công nghệ vẫn còn gặp những khó khăn. Do đó, việc xây dựng những chính sách hỗ trợ phát triển, nhất là phát triển các tổ chức trung gian, tạo sức bật trong lĩnh vực này, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là vô cùng quan trọng.[3]

Tổ chức trung gian chưa phát triển

Trong những năm qua, thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam đã gia tăng cả về quy mô và tốc độ phát triển. Các loại hình hàng hóa trên thị trường khoa học và công nghệ ngày càng đa dạng, phong phú; hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được đẩy mạnh… Đáng chú ý, thực hiện Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2075/QĐ-TTg ngày 8-11-2013, đến nay đã có 25 sản phẩm được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ (giai đoạn 2016-2020); 1.200 hợp đồng được ký kết với giá trị gần 1.000 tỷ đồng (giai đoạn 2015-2018)…

Tuy có sự phát triển nhất định, song thị trường khoa học và công nghệ vẫn thiếu tính đột phá. Các sàn giao dịch hoạt động kém hiệu quả. Các tổ chức môi giới chuyển giao công nghệ trong các trường đại học chưa thể hiện được vai trò trung gian kết nối cung – cầu…

Theo Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội, tính đến ngày 30-11-2020, Sở đã cấp đăng ký hoạt động cho 665 tổ chức khoa học và công nghệ, khoảng 70% trong số này có đăng ký hoạt động “tư vấn chuyển giao công nghệ”. Tuy nhiên, theo báo cáo định kỳ hằng năm của các đơn vị gửi về không thấy kết quả hoạt động này. Số lượng cơ sở ươm tạo doanh nghiệp (BI), cơ sở ươm tạo công nghệ, tổ chức thúc đẩy kinh doanh (BA) trên địa bàn thành phố còn ít.

“Đây là “điểm nghẽn” mà lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ đã yêu cầu xử lý rất nhiều lần. Chính vì vậy, thời gian tới, cần những biện pháp mạnh cũng như triển khai đồng bộ, sàng lọc, đánh giá năng lực các tổ chức trung gian để triển khai các hoạt động hỗ trợ”.

Nguyên nhân là do, các tổ chức trung gian trên thị trường khoa học và công nghệ chưa thực sự phát triển, vai trò chưa đủ mạnh, cũng như chưa thể hiện được chức năng kết nối cung – cầu, tư vấn chuyển giao công nghệ và thúc đẩy hoạt động sáng tạo…

Hướng đến “sàn giao dịch công nghệ quốc gia”

Theo các chuyên gia khoa học và công nghệ, để tháo gỡ nút thắt, thúc đẩy các tổ chức trung gian phát triển, hình thành mạng lưới các tổ chức đủ năng lực kết nối các chủ thể trên thị trường khoa học và công nghệ, Nhà nước cần hoàn thiện các quy định về hoạt động của các tổ chức trung gian cũng như có các chính sách mới, đủ mạnh để hỗ trợ. Đặc biệt, cần hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hỗ trợ hoạt động của các tổ chức trung gian, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ cấp quốc gia; nâng cao năng lực khai thác thông tin về công nghệ, sở hữu trí tuệ, kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; thực hiện dịch vụ tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao công nghệ…[3]

Chính sách phát triển tổ chức trung gian chưa tạo ra động lực thúc đẩy các bên liên quan tham gia phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tuy vậy, việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế. Điển hình là mối liên kết giữa nghiên cứu với thị trường, nhà khoa học với doanh nghiệp còn yếu, chưa định hình rõ nét. Yếu kém này có căn nguyên là mạng lưới tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ vẫn đang trong giai đoạn hình thành, thiếu đồng bộ, năng lực chưa cao, chưa phát huy hết chức năng kết nối cung – cầu. Đáng nói, bản thân không ít tổ chức trung gian còn chưa đủ “tầm” để đóng góp hiệu quả vào hoạt động sáng tạo, tư vấn chuyển giao công nghệ… Chính sách phát triển tổ chức trung gian chưa tạo ra động lực thúc đẩy các bên liên quan tham gia phát triển thị trường khoa học và công nghệ.

Trong khi đó, sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ phụ thuộc khá lớn vào các tổ chức trung gian, nhất là với các nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, để kết quả nghiên cứu không “nằm trên giấy”, “cất trong ngăn tủ”, việc phát triển dịch vụ trung gian cho thị trường khoa học và công nghệ vẫn là giải pháp then chốt.

Nhiệm vụ trước tiên là cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý về thị trường khoa học và công nghệ; trong đó, phải khẳng định rõ vai trò nòng cốt của tổ chức trung gian để thích ứng hơn với kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụ thể hơn, phải đặc biệt quan tâm đến những cơ chế, chính sách mang tính căn bản như hỗ trợ về ngân sách, hạ tầng công nghệ, cơ sở dữ liệu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… nhằm hình thành được mạng lưới các tổ chức trung gian đủ năng lực kết nối các chủ thể trên thị trường khoa học và công nghệ. Trong đó, những hoạt động mang tính chuyên sâu, thể hiện rõ vai trò tổ chức trung gian cần chú trọng là phát triển sàn, trung tâm giao dịch công nghệ; xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ; hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ, đổi mới sáng tạo…

Cùng với đó, cần thúc đẩy việc số hóa, liên kết, liên thông các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ của Việt Nam với các tổ chức trung gian hoạt động trong lĩnh vực này ở khu vực và thế giới. Việc này giúp các tổ chức trung gian của Việt Nam tiếp cận, học hỏi và ứng dụng những tiến bộ của thế giới để nâng cao năng lực hoạt động. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp, đội ngũ nhà khoa học tiếp thu những tinh hoa để phục vụ công việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.

Trong “chuỗi liên kết” nghiên cứu – phát triển – ứng dụng thực tế, ngoài các nhà khoa học và tổ chức trung gian, các doanh nghiệp là “mắt xích” quan trọng để hiện thực hóa thành tựu nghiên cứu khoa học và công nghệ trong đời sống xã hội. Thực hiện tốt vai trò quan trọng này, các doanh nghiệp phải có sự liên kết chặt chẽ với tổ chức trung gian, nhà khoa học, nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm chủ và áp dụng công nghệ mới. Muốn vậy, không có cách nào khác là tự thân doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng quản trị, xây dựng đội ngũ nhân lực phù hợp, đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin tương xứng…

Liên kết chặt chẽ chính là giải pháp then chốt để đơn vị nghiên cứu, nhà khoa học, tổ chức trung gian, doanh nghiệp cùng phát triển, tạo nên một thị trường khoa học và công nghệ có lợi cho nhiều bên và tất cả cùng thắng…[4]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Thu Hằng, “Khoa học và công nghệ – động lực phát triển đất nước”, HNM 8/9/2020;
  2. Thu Hằng, “Sức bật để phát triển thị trường khoa học và công nghệ”, HNM 1/12/2020;
  3. Thu Hằng, “Cần một sàn giao dịch công nghệ Quốc gia”, HNM 15/12/2020;
  4. Chí Kiên, “Liên kết cùng phát triển”, HNM 15/12/2020.

PGS. TS NGUYỄN ĐỨC KHIỂN

(Theo Môi trường & Đô thị điện tử)