Lại lo thiếu vật liệu làm cao tốc

Sau hơn 1 tháng khởi công, nhiều dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2 đối diện nỗi lo về nguồn vật liệu thi công, ảnh hưởng tiến độ.

Khó khăn nguồn đất đắp

Hơn 1 tháng kể từ ngày khởi công, phạm vi triển khai thi công gói thầu XL11 dự án cao tốc Bắc – Nam đoạn Hoài Nhơn – Quy Nhơn không ngừng được mở rộng, tranh thủ thời tiết thuận lợi.

Ông Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc điều hành gói thầu cho biết, Tổng công ty đã huy động khoảng 50 đầu máy, thiết bị triển khai thành 5 mũi thi công cào bóc hữu cơ. Khối lượng đến nay đạt khoảng 50.000m3.

Nhiều dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2 bắt đầu đối diện nỗi lo về nguồn vật liệu thi công (Trong ảnh: Thi công cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2 đoạn Vạn Ninh - Cam Lộ). Ảnh: Duy Lợi

Nhiều dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2 bắt đầu đối diện nỗi lo về nguồn vật liệu thi công (Trong ảnh: Thi công cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2 đoạn Vạn Ninh – Cam Lộ). Ảnh: Duy Lợi

Tuy nhiên, ông Toàn rất lo khi nguồn vật liệu đang rơi vào bế tắc. Tại gói thầu XL11, tổng khối lượng đào khoảng 4,5 triệu m3, khối lượng đắp khoảng 3,5 triệu m3. Trong tổng khối lượng đất đắp thi công nền đường, khoảng 2 triệu m3 sẽ được điều phối từ lượng đất đào; 1,5 triệu m3 còn lại huy động thêm từ các mỏ vật liệu.

Vướng mắc lớn nhất hiện nay là khối lượng đất điều phối cho công tác đắp nền đường lại đang nằm trong phạm vi rừng tự nhiên (Km18 – Km21). Khu vực này nhà thầu chưa thể tiếp cận do thủ tục khai thác chưa được hoàn thiện và phải chờ cấp có thẩm quyền trình Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương.

Trong khu vực rừng tự nhiên nói trên, bên cạnh điều phối đất đắp, nhà thầu còn tận dụng đá xay nghiền làm móng, mặt đường cho toàn gói thầu với tổng khối lượng đào phá khoảng 1,5 triệu m3, khối lượng tận dụng khoảng 1 triệu m3. Thế nhưng, do chưa tiếp cận công địa, công tác xay nghiền đá chưa thể thực hiện. Trong khi, thời gian chuẩn bị phải mất đến 3 – 4 tháng.

Kế bên dự án Hoài Nhơn – Quy Nhơn, tại dự án thành phần Quảng Ngãi – Hoài Nhơn, nhà thầu cũng đang nỗ lực xoay xở khơi thông vấn đề vật liệu. Đại diện Ban điều hành dự án thuộc Tập đoàn Đèo Cả cho biết, tại gói thầu XL1 đã khởi công, nhu cầu đất đắp khoảng 5,8 triệu m3; cát cần 530.000m3. Tính chung dự án trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhu cầu đất đắp khoảng 9,6 triệu m3; cát xây dựng 1 triệu m3. Trên địa bàn Bình Định, đất đắp khoảng 3 triệu m3; cát xây dựng 300.000 m3.

Phục vụ thi công dự án, Quảng Ngãi đã quy hoạch 24 mỏ cung cấp cho dự án (11,6 triệu m3); Bình Định quy hoạch 5 mỏ (8,9 triệu m3). Ngoài ra, nhà thầu cũng đề nghị bổ sung quy hoạch 9 mỏ với tổng trữ lượng khoảng 11,8 triệu m3.

Đáng lo nhất là trong giai đoạn chờ cấp phép các mỏ vật liệu theo cơ chế đặc thù, nhà thầu đã khảo sát các mỏ hiện đang khai thác (mỏ thương mại), song các chủ mỏ đều trả lời là không đủ trữ lượng và công suất để cung cấp cho dự án cao tốc. Họ cũng không hợp tác trong quá trình thương thảo, thông tin giá cả.

“Đơn vị thi công đã đề nghị địa phương tổ chức làm việc với các chủ mỏ, mời các đơn vị nhà thầu, tư vấn, chủ đầu tư cùng tham gia. Trường hợp mỏ nào không tuân thủ, địa phương cần xem xét, thu hồi”, đại diện Tập đoàn Đèo Cả kiến nghị.

Cát thiếu khối lượng, công suất khai thác thấp

Những ngày qua, nỗi lo về vật liệu cũng thường trực tại dự án đoạn Vũng Áng – Bùng.

Đang phụ trách thi công 24km đường gói thầu XL2, đại diện Công ty CP Đầu tư và Xây dựng giao thông Phương Thành cho biết, theo tính toán, công tác xử lý nền đất yếu (4 – 5km) tại gói thầu sẽ cần khoảng gần 1 triệu m3 cát trong năm 2023.

Thế nhưng, kết quả khảo sát bước đầu cho thấy, khối lượng đáp ứng thực tế tại địa phương chỉ được khoảng 20 – 30%. Tại Quảng Bình, mỏ cát rất dồi dào nhưng công suất khai thác rất nhỏ, mỗi năm chỉ được 20.000 – 30.000m3. Để dự án đảm bảo được tiến độ, công suất các mỏ cát, đá hiện hữu cần được nâng lên gấp 3 – 5 lần hiện tại.

Tại hai dự án thành phần đoạn Cần Thơ – Hậu Giang và Hậu Giang – Cà Mau, tình trạng “đói” vật liệu thi công cũng đang hiện hữu.

Ông Phạm Văn Tuân, Phó giám đốc Ban QLDA Mỹ Thuận cho biết, theo tính toán, tổng nhu cầu vật liệu cát đắp nền của dự án đoạn Cần Thơ – Cà Mau là 18,5 triệu m3, đất đắp 1,49 triệu m3.

Kết quả khảo sát địa bàn tỉnh An Giang và Đồng Tháp hiện có hơn 25 mỏ đáp ứng yêu cầu. Tuy nhiên, qua làm việc với các địa phương công suất khai thác cát trên địa bàn tỉnh chỉ đủ cung cấp cho các công trình trên địa bàn tỉnh, chưa đủ nguồn cấp cho dự án Cần Thơ – Cà Mau.

Hiện nay mới chỉ có tỉnh An Giang dự kiến cung cấp cho dự án khoảng 1,1 triệu m3 từ nguồn tăng 50% công suất các mỏ đang khai thác. Các tỉnh còn lại chưa có kế hoạch cụ thể bằng văn bản.

Để giải quyết khó khăn, Ban QLDA Mỹ Thuận đã báo cáo Bộ GTVT gửi văn bản đề nghị UBND các tỉnh hỗ trợ tháo gỡ khó khăn về vật liệu.

Trữ lượng đủ nhưng khả năng cung ứng thấp

Tổng nhu cầu vật liệu của 10 dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam đoạn từ tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Khánh Hòa khoảng 17,1 triệu m3 đá; khoảng 8,95 triệu m3 cát và khoảng 45,3 triệu m3 đất đắp (Trong ảnh: Thi công cao tốc Bắc - Nam đoạn qua tỉnh Quảng Bình). Ảnh: Hà Vũ

Tổng nhu cầu vật liệu của 10 dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam đoạn từ tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Khánh Hòa khoảng 17,1 triệu m3 đá; khoảng 8,95 triệu m3 cát và khoảng 45,3 triệu m3 đất đắp (Trong ảnh: Thi công cao tốc Bắc – Nam đoạn qua tỉnh Quảng Bình). Ảnh: Hà Vũ

Theo ông Nguyễn Thế Minh, Phó cục trưởng Cục Quản lý đầu tư xây dựng (Bộ GTVT), tổng nhu cầu vật liệu của 10 dự án thành phần đoạn từ tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Khánh Hòa khoảng 17,1 triệu m3 đá; khoảng 8,95 triệu m3 cát và khoảng 45,3 triệu m3 đất đắp.

Hồ sơ khảo sát mỏ vật liệu của tư vấn cho thấy, có 102 mỏ đá với tổng trữ lượng hơn 189 triệu m3, dự kiến, sử dụng đá tại 82 mỏ với trữ lượng hơn 152 triệu m3.

Trong 114 mỏ cát có khả năng đáp ứng, tổng trữ lượng 33,66 triệu m3, dự kiến sử dụng cát tại 104 mỏ có trữ lượng khoảng 32 triệu m3.

Về mỏ đất đắp, quá trình khảo sát có 109 mỏ đáp ứng yêu cầu, tổng trữ lượng gần 135 triệu m3, dự kiến sử dụng đất tại 90 mỏ với trữ lượng khoảng 113,8 triệu m3.

Theo ông Minh, các mỏ đều đáp ứng về trữ lượng, chất lượng để phục vụ dự án nhưng về khả năng khai thác, cung ứng vật liệu theo giấy phép khai thác như hiện nay chưa đáp ứng theo tiến độ thi công của các dự án.

Cụ thể, so sánh tổng nhu cầu với tổng công suất khai thác hiện nay (khoảng 6,4 triệu m3/năm), đồng thời tính nhu cầu đá cho thời gian thi công 1,5 năm, lượng đá còn thiếu khoảng 7,5 triệu m3. Trong đó, Hà Tĩnh thiếu 1,4 triệu m3, Quảng Bình thiếu 1,56 triệu m3.

So với tổng nhu cầu vật liệu cát của các dự án (khoảng 8,95 triệu m3) với tổng công suất khai thác hiện nay (khoảng 1,76 triệu m3/năm) và tính nhu cầu cát cho thời gian thi công 1,5 năm, các mỏ đang khai thác còn thiếu khoảng 1,9 triệu m3. Trong đó, nhiều nhất là tỉnh Quảng Bình thiếu 1 triệu m3.

Về vật liệu đất đắp, các mỏ sử dụng cho dự án đã được các địa phương quy hoạch 86/90 mỏ, đảm bảo nhu cầu. Đối với các mỏ đang khai thác, so với nhu cầu của dự án còn thiếu khoảng 3 triệu m3. Trong đó, tỉnh Hà Tĩnh thiếu 2,3 triệu m3; tỉnh Quảng Ngãi thiếu 0,7 triệu m3.

Đối với hai dự án thành phần đoạn Cần Thơ – Cà Mau, so với tổng nhu cầu vật liệu cát (khoảng 18,5 triệu m3), với tổng công suất khai thác hiện nay của 24 mỏ (khoảng 6,17 triệu m3/năm).

Nếu tăng công suất khai thác các mỏ thêm 50% trong 2 năm theo Nghị quyết số 18 của Chính phủ và dành 100% phần tăng thêm (khoảng 6,17 triệu m3) vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của dự án (khoảng 11,1 triệu m3 trong năm 2023 và 7,4 triệu m3 trong năm 2024).

Theo khảo sát, tổng trữ lượng các mỏ trong quy hoạch khoảng hơn 215 triệu m3. Trong đó, tỉnh An Giang khoảng 54,54 triệu m3/13 mỏ; tỉnh Đồng Tháp 33,57 triệu m3/10 mỏ; tỉnh Vĩnh Long 42,3 triệu m3/10 mỏ; tỉnh Sóc Trăng 85 triệu m3. Tuy nhiên, đối với các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, chất lượng cát kém do lẫn nhiều tạp chất.

Để đảm bảo tiến độ triển khai dự án, Bộ TN&MT đã chủ trì cùng Bộ GTVT làm việc và đề nghị các địa phương rà soát, nâng công suất các mỏ đã cấp phép khai thác theo Nghị quyết số 18 của Chính phủ; Tổng hợp trữ lượng có thể bố trí cho dự án để có cơ sở báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Việc phân bổ cần căn cứ nhu cầu và tiến độ triển khai từng dự án và theo nguyên tắc dự án nào khởi công trước thì ưu tiên phân bổ trước.

Chờ hướng dẫn cụ thể

Ông Nguyễn Thế Minh cho biết, Bộ TN&MT đã có Văn bản số 1411 ngày 18/3/2022 hướng dẫn các địa phương về hồ sơ, thủ tục đăng ký khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và Thông báo số 167 ngày 25/11/2022. Tuy nhiên, các địa phương vẫn còn lúng túng trong việc triển khai do chưa rõ thủ tục thu hồi đất.

“Theo Luật Đất đai, đối với mỏ vật liệu xây dựng thông thường không thuộc diện Nhà nước thu hồi đất mà sẽ thực hiện theo các hình thức như nhượng quyền sử dụng, thuê khai thác, hợp tác kinh doanh…

Cục đang đề nghị nhà thầu, chủ đầu tư cùng các địa phương từ Hà Tĩnh đến Khánh Hòa có 10 dự án thành phần đi qua làm việc với người có đất, tổng hợp nhu cầu để xem phương án nào được đề xuất thực hiện nhiều nhất, lấy cơ sở báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét thực hiện”, ông Minh nói và chia sẻ thêm, dưới góc độ đánh giá cá nhân, phương án chuyển nhượng nếu thực hiện được sẽ thuận lợi về vấn đề thủ tục nhất. Khi ấy, chi phí chuyển nhượng sẽ được các địa phương kiểm soát, tránh tình trạng nâng giá, ép giá.

Một vướng mắc khác được đại diện Ban QLDA 2 nhận diện là thủ tục đánh giá tác động môi trường đối với các mỏ khoáng sản nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ dự án nhưng chưa cấp giấy phép khai thác.

Cụ thể là giữa nội dung Văn bản số 1411 của Bộ TN&MT và Nghị quyết 119 ngày 8/9/2022 của Chính phủ có sự khác nhau. “Hướng dẫn về thủ tục môi trường đang có sự vênh nhau đòi hỏi văn bản hướng dẫn, thống nhất cụ thể từ cơ quan có thẩm quyền”, đại diện Ban QLDA 2 cho biết.

Ông Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các Nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (Varsi):
Xử nghiêm chủ mỏ có hành vi “găm hàng”

Đối với mỏ vật liệu phục vụ cho công trình cao tốc, các địa phương có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác phải làm quyết liệt. Khó đến đâu cần kiến nghị và mời các Bộ chuyên ngành vào cuộc phối hợp, tìm phương án tối ưu.

Với các mỏ đã được giao cho tư nhân, các Bộ, ngành, địa phương liên quan cũng cần tăng cường kiểm tra, giám sát, có chế tài xử lý ngay đối với chủ mỏ có hành vi “găm hàng”, chờ thời cơ đẩy giá. Không thể để một công trình huyết mạch, trọng điểm của đất nước phải đi mặc cả giá tài nguyên quốc gia, làm đội vốn, chậm tiến độ.

Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội các Nhà thầu xây dựng Việt Nam:
Quyền lợi phải đi đôi trách nhiệm

Với mục tiêu hoàn thành dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 trong thời gian sớm nhất, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã có quyết định mạnh dạn về cơ chế chỉ định thầu. Nhờ đó, thủ tục đấu thầu đã giải quyết được rất nhanh.

Mặc dù vậy, tiến độ dự án còn có hai yếu tố khác quyết định. Thứ nhất công tác chuẩn bị hồ sơ thiết kế, đánh giá mỏ vật liệu phải tốt hơn. Thứ hai là trách nhiệm của địa phương trong GPMB và mỏ vật liệu. Nghị quyết của Chính phủ đã cho phép cấp mỏ vật liệu trực tiếp cho nhà thầu thi công dự án cao tốc Bắc – Nam khai thác trực tiếp.

Dự án đi qua địa phương nào thì địa phương đó sẽ được hưởng lợi trên nhiều phương diện. Quyền lợi phải đi đôi với trách nhiệm, các tỉnh, thành có dự án đi qua cần quyết liệt hơn nữa trong công tác phối hợp, bố trí mỏ vật liệu thi công dự án.

Các địa phương bố trí mỏ vật liệu thế nào?

Thông tin từ Sở TN&MT tỉnh Quảng Bình cho biết, hiện nay, tỉnh có 34 mỏ cát, sỏi đã được cấp phép khai thác với trữ lượng 4.610.658m3, công suất 426.500 m3/năm.

Trong đó, có 11 mỏ cát làm vật liệu san lấp với trữ lượng 3.243.196m3 và công suất 303.000m3/năm; 23 mỏ cát, sỏi làm vật liệu xây dựng thông thường, với trữ lượng 1.367.462m3 và công suất 123.500m3/năm.

Theo lãnh đạo Sở GTVT tỉnh Quảng Bình, mỏ VLXD ở Quảng Bình đáp ứng nhu cầu các dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam. Liên quan đến việc tăng công suất khai thác các mỏ cát trên địa bàn, tỉnh chưa có chủ trương vì đa số các mỏ cát nằm ở khu vực các lòng sông, nếu tăng công suất khai thác cát thì sẽ ảnh hưởng đến đời sống người dân.

Tại Quảng Ngãi, tỉnh đã thống nhất xác định 31 mỏ vật liệu có tổng trữ lượng hơn 20 triệu m3 để phục vụ dự án. Phó giám đốc Sở Xây dựng Quảng Ngãi Nguyễn Hữu Hồng biết, đã có 25 doanh nghiệp với 26 mỏ đất đã thống nhất với giá do Sở Xây dựng thẩm định và công bố giá công bố. Theo đó, giá công bố mỏ thấp nhất là hơn 27.000 đồng/m3 và cao nhất là hơn 40 nghìn đồng/m3.

Đồng thời, có 4 mỏ đất đã được cấp phép khai thác nhưng chưa được công bố giá. “Sở sẽ kiến nghị tỉnh cho tạm dừng khai thác cho đến khi hoàn thiện hồ sơ kê khai giá. Đối với doanh nghiệp không cung cấp hồ sơ kê khai giá, Sở cung cấp thông tin để Sở TN&MT tham mưu UBND tỉnh xử lý”, ông Hồng cho hay.

Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Đặng Văn Minh cho biết, đã chỉ đạo các các sở, ngành có liên quan rà soát lại các mỏ vật liệu, đặc biệt là mỏ đất, đảm bảo không xảy ra thiếu hụt thi công dự án. Tổ chức thanh tra, giám sát, nếu các chủ mỏ vi phạm thì phải cương quyết xử lý thật nghiêm theo quy định.

“Nếu các mỏ vật liệu chưa đủ thì tỉnh sẽ nâng trữ lượng khai thác lên nhằm phục vụ tối đa nhu cầu của dự án, không có lý do gì tỉnh không làm được. Đây là dự án trọng điểm quốc gia nên tỉnh phải thực hiện quyết liệt”, ông Minh cho hay.

Tại dự án cao tốc Vạn Ninh – Cam Lộ, nhu cầu đất đắp sử dụng cho dự án đoạn qua tỉnh Quảng Trị chỉ cần 5 mỏ đất (tổng trữ lượng khoảng 1,64 triệu m3) là cơ bản đáp ứng nhu cầu. Tỉnh đã chấp thuận 8 mỏ có trữ lượng 7,54 triệu m3.

Tại Vĩnh Long, kết quả khảo sát cho thấy tỉnh có 26 mỏ cát còn hiệu lực với tổng khối lượng khai thác cho phép là gần 3,8 triệu m3/năm. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Liệt, Phó chủ tịch UBND tỉnh cho biết: “Cát dự trữ thì có, chủ trương tỉnh cũng đã có. Giờ chỉ cần văn bản chính thức và cụ thể của cơ quan có thẩm quyền hoặc đơn vị trúng thầu san lấp, tỉnh sẽ thống nhất”.

Tại Đồng Tháp, năm 2022, tỉnh Đồng Tháp cấp phép khai thác 6 triệu m3 cát, dự kiến năm 2023 chỉ cấp phép khai thác 4 triệu m3 do nhiều mỏ đã hết trữ lượng. Giai đoạn 2022 – 2025 nhu cầu sử dụng cát cho các công trình giao thông trên địa bàn tỉnh cần 44 triệu m3, tuy nhiên mới chỉ đáp ứng gần 45%. Do đó, việc cân đối để có thể cung cấp cát cho các công trình bên ngoài tỉnh rất khó khăn.

Nhóm phóng viên

Nam Khánh – Báo Giao Thông

Theo Giao Thông

Xem bài viết gốc tại đây:

https://www.baogiaothong.vn/lai-lo-thieu-vat-lieu-lam-cao-toc-d581706.html