Gian truân đi tìm công nghệ xử lý chất thải ở Việt Nam

Hiện đã có nhiều phương pháp, công nghệ xử lý chất thải rắn được triển khai. Tuy nhiên, việc áp dụng các công nghệ đó vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc…

Hiện nay, đã có nhiều phương pháp, công nghệ xử lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) nói riêng được triển khai. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, áp dụng các công nghệ đó tại các địa phương vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc dẫn đến việc xử lý CTRSH vẫn là một vấn đề nan giải.

Hàng năm, cả nước phải tiếp nhận một khối lượng chất thải rắn lên tới gần 40 triệu tấn. Con số này vẫn đang tiếp tục tăng với tốc độ khoảng 9%/năm. Mặc dù, ngân sách Trung ương và địa phương đã dành hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm để quản lý và xử lý thế nhưng, kết quả thu được chưa tương xứng với chi phí, nguồn lực đã bỏ ra. Nguyên nhân chính là do chúng ta chưa lựa chọn được công nghệ xử lý phù hợp.

Trên thế giới, rác thải hiện nay đang được xử lý theo một số phương pháp :

1. Chôn lấp không hợp vệ sinh:

Rác thải được đổ thẳng ra môi trường, không xây lót chống thấm, không tường bao, thu gom xử lý nước rác. Công nghệ này phổ biến ở các nước nghèo và các nước đang phát triển.

2. Chôn lấp hợp vệ sinh:

Rác thải có đệm lót chống thấm, tường bao, hệ thống thu gom xử lý nước rác, thu khí mê-tan để phát điện, chỉ chôn lấp những thứ còn lại sau phân loại làm tái chế, tái sử dụng, làm phân compost. Mô hình này khá phổ biến ở Mỹ và Canada.

3. Rác thải được đưa vào lò đốt sinh khối phân hủy thành tro:

Do rác thải của Việt Nam có rất nhiều nhựa và nylon nên việc áp dụng công nghệ này sẽ phát thải khí độc đặc biệt nguy hiểm là dioxin và furan (đây chính là chất độc màu da cam). Hai loại chất này phát tán ra môi trường trong điều kiện nhiệt trên 500oC, khi đến 1.200oC hai loại khí này sẽ không còn nhưng với điều kiện khí phát ra ở đầu ống khói phải dưới 70oC. Còn nếu không đạt được nhiệt độ này trong 5 giây, hai chất này sẽ tái tổ hợp lại và tồn tại vĩnh cửu trong không khí. Tuy vậy, thường ở Việt Nam, nhiệt độ lò không đạt đến 1.200oC, mặt khác, khi đốt sinh khối không thể kiểm soát khí thải, chỉ có thể xử lý khí thải sau khi đã đốt.

4. Đốt sinh khối phát điện:

Hiện, công nghệ này được áp dụng rộng rãi, do có một số ưu điểm nổi bật so với các công nghệ khác, như giảm được 90 – 95% thể tích và khối lượng chất thải, có thể tận dụng nhiệt, tiết kiệm được diện tích so với biện pháp chôn lấp, giảm thiểu ô nhiễm nước, mùi hôi, giảm phát khí thải nhà kính so với biện pháp chôn lấp. Công nghệ này rất phổ biến ở Châu Âu (có hơn 400 nhà máy điện rác) và các nước Đông Á. Ở Đan Mạch 100% rác được đốt và thu hồi năng lượng. Nhiệt được sản xuất từ lò đốt được sử dụng để tạo ra hơi nước, mà sau đó, dùng chạy tua bin để sản xuất điện… Nhật Bản có 304 nhà máy, với tổng công suất phát điện 1.673 MWh/năm. Ở Singapore có khoảng 7.000 tấn rác được đưa vào 4 nhà máy đốt rác thải phát điện đủ cung cấp 3% tổng nhu cầu điện của Singapore. Đây bản chất là nhà máy điện than, song đốt rác còn nguy hại hơn đốt than. Trên thực tế, 90 – 95% năng lượng điện sản xuất được sử dụng cho các hoạt động của nhà máy, chỉ 5 – 10% phát lên lưới nên hiệu quả và tính khả thi không cao.

5. Công nghệ khí hóa Plasma:

Công nghệ khí hoá Plasma ở nhiệt độ rất cao, có khả năng làm sạch khí phát thải tốt hơn, nhưng lại rất hao tốn năng lượng nên giá thành rất cao, ngay cả các nước phương tây cũng chỉ dùng cho việc xử lý rác thải độc hại. Các nước nghèo thường không có khả năng áp dụng công nghệ này

Nhiều công nghệ hay nhưng Việt Nam áp dụng lại không hiệu quả?

Trong các phương pháp trên hiện có 2 phương pháp được các nước phát triển trên thế giới sử dụng là chôn lấp hợp vệ sinh (tận dụng khí thải mê-tan từ bãi chôn lấp để phát điện) và đốt sinh khối để phát điện (gọi là điện rác). Cả hai phương pháp này đều yêu cầu bắt buộc là rác đầu vào phải được phân loại từ đầu nguồn theo các mục đích tái chế, tái sử dụng. Các nước phát triển áp dụng hai phương pháp trên khá thành công do họ ý thức phân loại rác đã hình thành từ lâu.

Còn tại Việt Nam, các nhà máy xử lý rác áp dụng 2 phương pháp đến nay hầu hết tất cả các nhà máy đó đều thất bại, hoạt động cầm chừng hoặc hoạt động nhưng không đạt tiêu chuẩn. Đơn cử như Nhà máy xử lý rác sinh hoạt phát điện Cần Thơ có tổng mức đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng đã sử dụng công nghệ đốt rác để phát điện. Năm 2017, Nhà máy chính thức đi vào hoạt động. Tuy vậy, đến nay, lượng tro bay đã gần đầy kho chứa, hệ lụy do công nghệ này đang khiến thành phố và nhà máy phải tìm phương án để giải quyết. Ông Heinrich Seul, Tổng Giám đốc của Công ty Tư vấn Toàn Cầu CBE (Thái Lan) với kinh nghiệm 30 năm tư vấn cho các dự án xử lý rác trên toàn thế giới đã khẳng định, rác thải sinh hoạt của Việt Nam không thể đốt được theo phương pháp đốt sinh khối truyền thống do đặc điểm hỗn tạp và độ ẩm cao. Lượng rác đốt được chỉ chiếm một phần nhỏ so với lượng nhiên liệu đầu vào (chủ yếu là than) để có thể sản xuất ra cái gọi là “điện rác” (giá điện rác được EVN mua lại với giá cao gấp đôi điện than).

Cùng cảnh ngộ là Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp phát điện đầu tiên của Hà Nội (Nhà máy Nedo), được xây dựng tại Khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn trên diện tích 16.809m2, với tổng mức đầu tư trên 645 tỷ đồng. Đây được đánh giá là dự án tiên phong trong quy trình xử lý rác thải công nghiệp hiện đại chưa từng có tại Việt Nam và khu vực. Tuy vậy, nhà máy cũng chỉ xử lý được 75 tấn rác thải công nghiệp, rác thải nguy hại/ngày và tạo ra 1.930kW điện, rất khiêm tốn so với tổng lượng rác phát sinh và những tháng gần đây Nhà máy này đã không thể phát điện. Không tính chi phí hoạt động và nếu chỉ có nguồn thu từ phí xử lý rác, dự án này sẽ mất gần 30 năm để hoàn vốn…

Đối với công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh thu hồi khí mêtan, điển hình phải kể đến dự án Nhà máy rác Đa Phước tại TP.HCM. Theo thiết kế và theo cam kết trong hợp đồng, đây là nhà máy phân loại, tái chế, làm phân bón compost và tận dụng khí mê-tan thải từ bãi chôn lấp để phát điện. Sau chục năm, đến nay, không có 1 kg phân compost nào, không 1Kw điện nào được sản xuất tại nhà máy. Tương tự, một loạt các nhà máy ở Hà Nam, Thừa Thiên – Huế sử dụng công nghệ này nhưng đến nay chỉ là những bãi chôn lấp nhếch nhác, bừa bãi, đốt thiêu hủy ống khói khói đen ngụt trời.

Sở dĩ các công nghệ này vào Việt Nam không đạt hiệu quả như mong muốn là do rác chưa được phân loại. Ở các nước, họ có 3, thậm chí là 5 thùng rác để người dân phân loại. Do đó, nhựa và nylon sẽ được lọc riêng để tái chế và họ chỉ chôn lấp hoặc đốt các loại rác còn lại.

Dự án Nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Đà Nẵng được đề xuất xử lý 1000 tấn rác thải rắn/ngày có thời gian hoạt động không quá 25 năm kể từ ngày ký kết hợp đồng dự án…

Công nghệ nào phù hợp với Việt Nam

Theo GS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Môi trường Đô thị và Công nghiệp, tồn tại lớn nhất của công tác quản lý, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta là chưa áp dụng được phương thức tổng hợp, chưa chú trọng đến các giải pháp phân loại chất thải rắn tại nguồn, tái sử dụng và tái chế chất thải nhằm hướng tới giảm khối lượng chất thải rắn phải chôn lấp.

Còn Phó Tổng cục trưởng Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường Hoàng Văn Thức cho rằng, các công nghệ xử lý CTRSH đang áp dụng ở nước ta (kể cả các công nghệ có xuất xứ từ nước ngoài) ngày càng đa dạng, nhưng hiệu quả thực tế chưa được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan. Một số công nghệ trong nước khi nghiên cứu áp dụng bước đầu đã đem lại hiệu quả, nhưng khi triển khai ứng dụng trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn để nhân rộng; một số phát sinh thứ cấp cần phải xử lý nhưng chưa đáp ứng được các quy chuẩn kỹ thuật môi trường.

Trong khi đó, công nghệ nước ngoài khi sử dụng tại Việt Nam gặp khó khăn do phần lớn CTRSH chưa được phân loại tại nguồn, độ ẩm cao, điều kiện nhiệt đới, lượng chất thải tiếp nhận thấp hơn công suất thiết kế hoặc không ổn định, đầu tư khá cao… dẫn đến chi phí vận hành lớn. Phương pháp chôn lấp đang được áp dụng chủ yếu tại Việt Nam, nhưng trong tổng số 904 bãi chôn lấp trên cả nước chỉ có chưa đến 20% bãi chôn lấp hợp vệ sinh, số còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh, các bãi tập kết chất thải cấp xã.

Do phần lớn các bãi chôn lấp tiếp nhận CTRSH chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm nhiều diện tích đất, phát sinh lượng lớn nước rỉ rác; nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng sức khỏe, hoạt động sản xuất và cuộc sống của người dân chung quanh khu vực này.

Trong số 381 lò đốt CTRSH, hiện chỉ có khoảng 294 lò đốt (chiếm khoảng 77%) có công suất hơn 300kg/giờ đáp ứng yêu cầu Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt CTRSH. Ðáng lo ngại, nhiều lò đốt cỡ nhỏ không có hệ thống xử lý khí thải hoặc hệ thống khí thải không đạt yêu cầu về môi trường, dẫn đến việc xử lý CTRSH tại nhiều địa phương không đạt được kết quả như mong muốn.

Việc lựa chọn công nghệ xử lý chất thải rắn nói chung, CTRSH nói riêng để đầu tư phù hợp điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường của các địa phương là vấn đề cấp thiết.

Trong khi đó theo Quyết định số 491/QÐ-TTg, ngày 7-5-2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050, nêu rõ mục tiêu đến năm 2025, có 90% tổng lượng CTRSH phát sinh tại các đô thị được thu gom và xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường; tăng cường khả năng tái chế, tái sử dụng, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng hoặc sản xuất phân hữu cơ; phấn đấu tỷ lệ CTRSH xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp đạt tỷ lệ dưới 30% so với lượng chất thải được thu gom…

Với vai trò là cơ quan đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành có liên quan tiến hành phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc của các tỉnh, thành phố trong việc áp dụng, lựa chọn mô hình quản lý và sử dụng công nghệ xử lý CTRSH tại địa bàn mình. Trên cơ sở đó, Bộ nghiên cứu, đề xuất các giải pháp về công nghệ xử lý CTRSH trên tinh thần bám sát các mục tiêu Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc hạn chế chôn lấp, tăng cường khả năng tái sử dụng, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng hoặc sản xuất phân hữu cơ. Bên cạnh đó, nghiên cứu và sớm ban hành danh mục công nghệ xử lý CTRSH dựa trên các tiêu chí về quy mô dân số, số lượng CTRSH, quỹ đất, địa lý để các địa phương lựa chọn công nghệ phù hợp điều kiện kinh tế – xã hội, trong đó chú trọng các công nghệ xử lý đi kèm các giải pháp giảm đến mức thấp nhất, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải, hạn chế thấp nhất lượng thải phải chôn lấp…

Chất thải sinh hoạt tại Việt Nam hầu hết là không được phân loại.

Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam nên ưu tiên đầu tư các nhà máy xử lý CTRSH tập trung, công nghệ hiện đại và công suất lớn, nhất là các nhà máy áp dụng công nghệ đốt rác phát điện tiên tiến. Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh triển khai các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ nhằm đánh giá, lựa chọn các công nghệ xử lý trong nước; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia các dự án sản xuất thử nghiệm, nhận chuyển giao công nghệ xử lý CTRSH gắn liền với các dự án đầu tư và nghiên cứu nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy mô lớn. Các tỉnh, thành phố cần nhanh chóng chuyển đổi các phương thức xử lý CTRSH theo xu hướng tái chế, tái sử dụng và tận dụng năng lượng từ CTRSH, giảm đến mức thấp nhất lượng đốt, chôn lấp, xả thải; thực hiện tốt việc phân loại CTRSH tại nguồn, tổ chức thu gom riêng từng loại CTRSH, vận chuyển theo các tuyến lộ trình đã được quy hoạch nhằm giảm tình trạng ô nhiễm môi trường./.

Tác giả: PGS.TS Nguyễn Đức Khiển

Nguyên Giám đốc Sở Khoa học – Công nghệ – Môi trường Hà Nội.