Công nghiệp ô tô cơ khí

Những sự sắp xếp trước đây vẫn còn giá trị nhưng phương pháp xử lí hoá lí cho phép giảm DCO từ 60 đến 75% trong trường hợp nhũ hoá và chắc chắn chỉ giảm từ 30 đến 50% đối với chất lỏng nửa tổng hợp.

1. Bảo dưỡng chu trình chất lỏng chứa nước

Cần phải bảo đảm cho phần lớn các công đoạn gia công bằng:

Loại bỏ cát và lọc trên giấy chạy liên tục dưới áp suất, hay thông thường là dưới chân không.

Để hiệu chỉnh thường yêu cầu chất lượng cao, có thể đảm bảo bằng:

– Lọc trên ống có lớp lắng phủ trước bằng tảo đơn bào;

– Kết bông và tuyển nổi bằng không khí hoà tan.

Trong tất cả các công đoạn, dầu tràn trên mặt bình chứa và trộn với ôxit được lấy ra bằng tang từ tính.

2. Phân huỷ chất lỏng dạng nước

2.1. Nhũ tương

Các phương pháp phụ thuộc vào nồng độ và bản chất của chất lỏng. Đối với nhũ tương, có nhiều phương pháp kĩ thuật khả thi:

– Bẻ gẫy ở trạng thái nóng (65-80°C) bằng axít ở nồng độ pH là 1-2 có mặt tác nhân muối kết (Al, Fe) với việc tách dầu bằng lắng tự nhiên hoặc li tâm sau khi kết thúc bằng FAD (hình 999);

– Kết bông ở trạng thái lạnh với nồng độ pH là 7-8 bằng CaCO3, Al3+ và Na2CO3 với kết tủa A1(OH)3 và CaCO3, lắng và tinh luyện bằng FAD;

– Kết bông lạnh với nồng độ pH là 5-6 chất làm đông tụ hữu cơ loại

KEMAZUR, lắng và tinh luyện bằng FAD. Phương pháp này không tái sinh bùn có liên quan đến nhũ ít đặc (hình 1000);

– Siêu lọc. Phương pháp tránh sử dụng chất phản ứng, giữ lại chất ngưng tụ chứa 30-50% dầu và khai thác bằng bể lắng chứa (hình 1001) hay liên tục, không tái sinh cho phép giữ lại các chất ăn mòn và các nguyên tố phóng xạ hoà tan ở nồng độ lớn hơn. Nó cho phép bảo đảm một hệ số khử nhiễu thông thường lớn hơn 100.

2.2. Chất lỏng nửa tổng hợp nghèo hydrocacbua

Những sự sắp xếp trước đây vẫn còn giá trị nhưng phương pháp xử lí hoá lí cho phép giảm DCO từ 60 đến 75% trong trường hợp nhũ hoá và chắc chắn chỉ giảm từ 30 đến 50% đối với chất lỏng nửa tổng hợp. Nhưng phương pháp xử lí này có thể kéo theọ làm sạch bổ sung: sự thậm ngược, làm trong bằng sinh học sau khi pha loãng và giảm độ độc hại nhỏ.

2.3. Chất lỏng tổng hợp

Phân huỷ bằng hoá hơi và đốt chỉ thực hiện ở những vị trí thuận lợi.

3. Bể sơn

Kết bông nước thải của bể sơn bằng điện chuyển a-nốt thường thực hiện kết bông khối sun-phát nhôm và tách các cục vón bằng FAD (FLOTAZUR). Sơn bằng điện chuyển a-nốt đặt ra hai khó khăn đặc biệt gắn với sự có mặt của Pb và nước ô nhiễm mạnh khi ngừng lọc UF cần để pha loãng nước thải. Cần phải có một tác nhân trung hoà.

Độ khô bùn tuyển nổi thay đổi từ 6 đến 12% tuỳ theo loại sơn. Bùn chuyển hoá, nồng độ của chúng tăng do pô-ly-me hoá sau khi tách ra ở ngoài thiết bị tuyển nổi. Nước đã tuyển nổi rất trong, nhưng theo hình thức tạo ra có thể có một lượng DCO dư từ 2 đến 5g/l.

PGS.TS Nguyễn Đức Khiển
Nguyên giám đốc Sở KHCN và MT Hà Nội