Các nhà khoa học ước tính tổng cộng, có khoảng 50 tỷ tỷ tấn khoáng chất và kim loại hòa tan trong tất cả các biển và đại dương trên thế giới.
Theo Đại học Stanford (Mỹ), nước biển chứa 47 khoáng chất và kim loại. Nhiều nhất là clorua, với nồng độ 18.980 phần triệu (ppm) trong nước biển, natri (10.561 ppm), magiê (272 ppm), lưu huỳnh (884 ppm), canxi (400 ppm), kali (380 ppm), brom (65 ppm), carbon vô cơ (28 ppm) và stronti (13 ppm). Tiếp theo là bor (4,6 ppm), silic (4 ppm), cacbon hữu cơ (3 ppm), nhôm (1,9 ppm), flo (1,4 ppm), nitơ ở dạng nitrat (0,7 ppm), nitơ hữu cơ (0,2 ppm) , rubidi (0,2 ppm), liti (0,1 ppm), phốt pho ở dạng phốt phát (0,1 ppm), đồng (0,09 ppm), bari (0,05 ppm), iốt (cũng 0,05 ppm), nitơ ở dạng nitrit (cũng 0,05 ppm) và nitơ ở dạng amoniac (một lần nữa 0,05 ppm).
Tiếp đến là asen (0,024 ppm), sắt (0,02 ppm), phốt pho hữu cơ (0,016 ppm), kẽm (0,014 ppm), mangan (0,01 ppm), chì (0,005 ppm), selen (0,004 ppm), thiếc (0,003 ppm), xêzi (0,002 ppm), molypden (cũng 0,002 ppm) và uranium (0,0016 ppm), gali (0,0005 ppm), niken (cũng 0,0005 ppm), thori (cũng 0,0005 ppm), xeri (0,0004 ppm), vanadi (0,0003 ppm), lantan (cũng 0,0003 ppm), yttrium (cũng 0,0003 ppm), thủy ngân (0,0003 ppm), bạc (cũng 0,0003 ppm), bitmut (0,0002 ppm), coban (0,0001 ppm) và cuối cùng là vàng (0,000008 ppm).
Tính riêng uranium, người ta ước tính rằng các đại dương trên thế giới chứa hơn 4 tỷ tấn uranium.
Tuy nhiên để khai thác “khó báu” đó thực sự không hề đơn giản. Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục tìm cách để chiết xuất các kim loại khác nhau từ nước biển.
Hải Thanh (T/H)
(Theo Môi trường & Đô thị điện tử)
Ảnh: Ảnh minh hoạ. ITN