Một trong những trụ cột của nền kinh tế tuần hoàn là tuần hoàn tài nguyên với cốt lõi của nó là 3R (giảm thiểu – tái sử dụng – tái chế). Do vậy, thúc đẩy 3R và thúc đẩy tuần hoàn tài nguyên là chìa khoá để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn.
Mặt khác, quá trình xây dựng nền kinh tế tuần hoàn cần có công nghệ và khả năng đổi mới nhằm tái sử dụng các nguồn lực hiệu quả mà nó không chỉ tốt cho môi trường mà còn tốt cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thực trạng chính sách, pháp luật về quản lý chất thải nhựa và phát triển kinh tế tuần hoàn Việt Nam hiện nay
Phát triển kinh tế tuần hoàn là một xu hướng của phát triển bền vững giúp đạt được cả hai mục tiêu, ứng phó với sự cạn kiệt của tài nguyên đầu vào và tình trạng ô nhiễm môi trường trong phát triển ở đầu ra. Kinh tế tuần hoàn (Circular economy) là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Nếu như mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống (Linear economy) chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ dẫn đến việc tạo ra chất thải. Việc tận dụng tài nguyên được thực hiện bằng nhiều hình thức như sửa chữa (repair), tái sử dụng (reuse), tái chế (recycle) và thay vì sở hữu vật chất thì hướng đến chia sẻ (sharing) hoặc cho thuê (leasing).
Cho đến nay, nhiều nước trên thế giới đã hoàn thiện thể chế về kinh tế tuần hoàn như của Liên minh châu Âu (EU) đã xây dựng được Kế hoạch hành động tuần hoàn 2015 và Chiến lược nhựa 2018. Hay tại Phần Lan, Pháp, Slovenia, Đức và Ý đã công bố các chiến lược và lộ trình thực hiện. Trung Quốc và EU cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác kinh tế tuần hoàn năm 2018. Việc áp dụng mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn đã mang lại nhiều lợi ích to lớn về kinh tế, môi trường và xã hội như: Hoa Kỳ, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Liên minh châu Âu,… Theo ước tính thực tế tại châu Âu, kinh tế tuần hoàn có thể tạo ra lợi ích 600 tỷ Euro mỗi năm, 580.000 việc làm mới và giúp giảm phát thải khí nhà kính. Ở Thái Lan, Malaysia, Singapore… đã áp dụng các phương pháp tái chế chất thải rắn thông thường hợp lý, nên mỗi năm đã tiết kiệm được 50% đến 55% các nguyên liệu như: bột giấy, nhựa, kim loại nặng từ việc tái chế rác thải. Hơn nữa, ngành công nghiệp này cũng mang lại doanh thu hàng chục tỷ đô la cho các quốc gia này mỗi năm.
Ở Việt Nam, nhu cầu thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn ngày càng trở nên cấp thiết do tài nguyên ngày càng bị khai thác cạn kiệt, môi trường ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Với diện tích đứng thứ 68 thế giới, dân số đứng thứ 15, nhưng chúng ta hiện đứng thứ 4 thế giới về rác thải nhựa với 1,83 triệu tấn/năm. Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng cho thấy, lượng rác thải ngày một tăng trong khi đó hệ thống thu gom, xử lý không đáp ứng kịp, cụ thể là trong năm 2015, Việt Nam phát sinh khoảng 27 triệu tấn chất thải. Chỉ tính riêng 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi ni-lông/ngày. Đáng chú ý, lượng chất thải nhựa và túi ni-lông cả nước chiếm khoảng 8% đến 12% trong chất thải rắn sinh hoạt. Nếu trung bình khoảng 10% lượng chất thải nhựa và túi ni-lông không được tái sử dụng mà thải bỏ hoàn toàn thì lượng chất thải nhựa và túi ni-lông thải bỏ xấp xỉ khoảng 2,5 triệu tấn/năm, đây là gánh nặng cho môi trường, thậm chí dẫn tới thảm hoạ “ô nhiễm trắng”.
Bên cạnh đó, với quan niệm xưa cũ cho rằng chất thải là thứ không có giá trị, phải loại bỏ cho nên ở Việt Nam nguồn tài nguyên này vẫn bị coi là gánh nặng của xã hội và được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, hoặc đốt thủ công tiêu tốn mỗi năm hàng nghìn tỷ đồng; chiếm dụng nhiều diện tích cho việc xây dựng bãi chôn lấp mà hiệu quả lại không cao. Các nguồn nguyên liệu có thể tái chế gồm chất hữu cơ, giấy, nhựa, kim loại… bị chôn vùi trong đất hàng trăm năm sau mới có thể phân huỷ. Còn đem đốt thải khói, khí độc ra môi trường. Nhiều bãi rác theo công nghệ cũ đã và đang gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới cuộc sống người dân. Thực tế này đặt ra vấn đề cần phải xem lại quy hoạch bảo vệ môi trường cũng như chính sách, pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường ở nước ta hiện nay.
Bối cảnh trên đặt ra yêu cầu thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn, trong đó có ngành công nghiệp nhựa. Tuy nhiên, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế tuần hoàn cũng như chính sách, pháp luật về quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, bất cập.
Qua khảo cứu của chúng tôi cho thấy, vấn đề phát triển kinh tế tuần hoàn đã được thể hiện qua quan điểm về phát triển bền vững; quan điểm về tăng trưởng xanh, quản lý chất thải… đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng như: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1991 – 2000; Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII; Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII; Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 – 2010; Văn kiện Đại hội IX; Văn kiện Đại hội X; Văn kiện Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII; Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị năm 1998, Nghị quyết 41/NQ-TW của Bộ Chính trị năm 2004, Chỉ thị 29/CT-TW của ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 41/NQ-TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết số 24-NQ/TW năm 2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về bảo vệ tài nguyên môi trường và nêu rõ các trụ cột của phát triển bền vững, đưa ra các phương thức, biện pháp để thực hiện hiệu quả mối quan hệ này và nhấn mạnh tới: “Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”. “Phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải”.
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành các chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, trong đó có quản lý chất thải nhựa, như Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính phủ về quản lý chất thải rắn. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 kèm theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018, trong đó nêu ra nhiều giải pháp để thực hiện Chiến lược như xây dựng Chương trình thúc đẩy phòng ngừa, giảm thiểu, tái chế, sử dụng chất thải rắn; chương trình thúc đẩy phân loại chất thải rắn tại nguồn…
Có thể thấy, pháp luật môi trường hiện hành phân loại chất thải thành hai nhón cơ bản là chất thải thông thường và chất thải nguy hại, từ đó có quy định về quản lý với từng nhóm khác nhau. Đối với chất thải nhựa có thể được xếp vào nhóm chất thải rắn thông thường có thể tái chế. Để phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ chất thải nhựa, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 không quy định trực tiếp về chất thải nhựa mà quy định thông qua quản lý chất thải rắn thông thường.
Thứ nhất, các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xử lý chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phải được đánh giá tác động môi trường để bảo đảm khi thực hiện dự án đó trên thực tiễn không gây ô nhiễm môi trường, trong đó có các dự án về sản xuất nhựa. Các hoạt động sản xuất có quy mô nhỏ hơn không thuộc trường hợp phải đánh giá tác động môi trường thì phải đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường.
Thứ hai, quy định rõ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phải được quản lý chất thải rắn, trong đó có chất thải nhựa. Bên cạnh đó, các chất thải này phải được quan trắc theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, quy định rõ các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nghĩa vụ phân loại chất thải rắn thông thường, trong đó có chất thải nhựa tại nguồn và có trách nhiệm tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý chất thải nhựa. Trường hợp không có khả năng tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý chất thải nhựa phải chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý. Để thúc đẩy các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng cơ sở tái chế, xử lý chất thải nhựa, Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ các hoạt động này.
Thứ tư, quy định trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh trong quản lý chất thải rắn, trong đó có chất thải nhựa.
Tiếp đó trong Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính Phủ về quản lý chất thải rắn; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP có phân loại theo mục đích quản lý và quy định cụ thể hơn về việc quản lý chất thải rắn thông thường, trong đó có chất thải nhựa. Nhấn mạnh hơn đến tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tăng cường áp dụng các biện pháp về tiết kiệm tài nguyên và năng lượng; sử dụng tài nguyên, năng lượng tái tạo và sản phẩm, nguyên liệu, năng lượng sạch thân thiện với môi trường; sản xuất sạch hơn; kiểm toán môi trường đối với chất thải và các biện pháp khác để phòng ngừa, giảm thiểu phát sinh chất thải. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phân loại chất thải tại nguồn nhằm mục đích tăng cường tái sử dụng, tái chế, đồng thời xử lý và thu hồi năng lượng. Nhà nước khuyến khích việc xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý chất thải và thu hồi năng lượng từ chất thải.
Nếu các chủ thể vi phạm thì bị xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại phải bồi thường. Tuy nhiên, qua phân tích trên cho thấy:
Thứ nhất, có thể thấy phát triển kinh tế tuần hoàn thể hiện qua nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững gián tiếp được quy định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau từ Hiến pháp, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đến Luật Bảo vệ Môi trường, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự… Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa xây dựng được mô hình kinh tế tuần hoàn cũng như chưa có thể chế pháp lý về kinh tế tuần hoàn mà mới dừng lại ở quy định về tái sử dụng, tái chế chất thải mang lại lợi ích về tài chính cho cơ sở sản xuất và tiêu dùng nên chính hoạt động của các mô hình đó đã gây nên ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Thứ hai, quy định về ĐTM và và KBM với các dự án đầu tư, trong đó có dự án sản xuất chất thải nhựa vẫn chưa mang tính thực chất, chưa góp phần vào phòng ngừa ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất các sản phẩm từ nhựa. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản pháp lý liên quan cũng quy định về việc tái chế, tái sử dụng chất thải, nhưng còn rất chung chung và nhiều thiếu sót; chưa có các quy định kết nối chặt chẽ từ thu hút đầu tư sản xuất, khai thác, chế biến, sử dụng, tái chế, tái sử dụng tài nguyên; chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế tuần hoàn.
Thứ ba, về thực tiễn các doanh nghiệp của Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp sản xuất nhựa hiện nay rất thiếu nguồn vốn, nguồn nhân lực và khả năng đổi mới để áp dụng nguyên lý của nền kinh tế tuần hoàn. Bởi hiện nay Việt Nam có hơn 95% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, trong đó đa phần các doanh nghiệp sản xuất nhựa của Việt Nam là doanh nghiệp tư nhân và cũng có quy mô không lớn. Do vậy, mặc dù Việt Nam đã có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017, nhưng thực tiễn để doanh nghiệp được nhận hỗ trợ cũng không dễ dàng. Thiếu sự rõ ràng, thống nhất trong quy định và thực hiện chu trình phát triển kinh tế tuần hoàn. Ví dụ: trong ngành nhựa việc biến chất thải nhựa thành nguyên vật liệu giá trị, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc kiểm soát, xây dựng cơ sở dữ liệu, phân phối, sử dụng nguyên liệu thứ cấp. Nhà đầu tư khó tiếp cận nguồn nguyên liệu cũng như khó đánh giá, kiểm soát thông tin về nguồn nguyên liệu tại Việt Nam, đầu ra cho các sản phẩm tái chế từ nhựa cũng rất hạn chế, chưa đồng bộ,… Chưa có thị trường ổn định về sử dụng nguyên liệu nhựa thứ cấp.
Thứ tư, Việt Nam chưa có một chiến lược riêng về quản lý chất thải nhựa mà được tích hợp trong Chiến lược quốc gia về quản lý tổng thể chất thải rắn đến 2025 tầm nhìn 2050. Hơn nữa, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng không có một từ nào nói đến quản lý chất thải nhựa. Nghị định 38/2015/NĐ-CP mặc dù có xếp chất thải nhựa thuộc loại chất thải có thể tái chế, nhưng quy định còn rất chung chung, khái quát, thiếu tính cụ thể; không có quy định trực tiếp, riêng về quản lý chất thải nhựa.
Thứ năm, chưa có sự minh định giữa quan điểm về việc loại bỏ hoàn toàn nhựa ra khỏi đời sống kinh tế xã hội hay chỉ loại bỏ chất thải nhựa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Thứ sáu, các quy định về phòng ngừa, giảm thiểu, xử lý chất thải nhựa vẫn chưa được xây dựng dựa trên nguyên tắc coi chất thải rắn thông thường là một loại tài nguyên.
Thứ bảy, về thẩm quyền quản lý chất thải nhựa, pháp luật hiện hành quy định cũng chưa cụ thể, rõ rầng về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền từ Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, … đến UBND các cấp, dẫn tới xác định thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý của các cơ quan này trong các trường hợp cụ thể là không đơn giản dễ dẫn tới hiện tượng “cha chung không ai khóc”. Pháp luật hiện hành cũng chưa phát huy được vai trò của cộng đồng trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường từ chất thải nhựa phát triển công nghiệp tái chế, tái sử dụng chất thải.
Trong khi đó, quy định về trách nhiệm của các cơ sở sản xuất kinh doanh chủ nguồn thải rắn trong quản lý chất thải còn quá chung chung, chưa khả thi, thiếu cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý; khó áp dụng trách nhiệm pháp lý khi có vi phạm trên thực tiễn. Khoản 4 Điều 20 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định chế tài áp dụng với hành vi không phân loại chất thải rắn sinh hoạt rất cao, từ 15 triệu đến 20 triệu đồng. Nhưng thực tế, hầu như chưa có hộ gia đình, cá nhân nào bị xử phạt về hành vi này. Hơn nữa, các yếu tố vật chất bảo đảm phân loại chất thải rắn thông thường chưa đồng bộ nên khó thực hiện được hiệu quả; việc lưu giữ chất thải, đặc biệt là chất thải răn sinh hoạt, trong đó rác thải nhựa còn nhiều bất cập; về vận chuyển chất thải, xã hội hoá hoạt động thu gom vận chuyển chất thải rắn thông thường trên thực tiễn chưa hài hoà giữa hoạt động của tư nhân với các công ty môi trường của Nhà nước; các quy định về xử lý chất thải vẫn chưa chú trọng thích đáng đến phát triển công nghiệp tái chế. Đặc biệt là thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào quá trình này chưa được khuyến khích, tạo điều kiện cụ thể, kịp thời; việc áp dụng các trách nhiệm pháp lý với các chủ thể vi phạm các quy định về quản lý chất thải vẫn chưa bảo đảm tính pháp chế, chưa bị xử lý triệt để. Ví dụ: vụ Nicotex Thanh Thái, Thanh Hoá hay hộ gia đình, cá nhân không phân loại chất thải, … chưa phát huy được vai trò của công cụ kinh tế, yếu tố thị trường, xã hội trong quản lý chất thải dẫn đến hiệu quả quản lý chất thải chưa cao.
Quan điểm, giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam và hoàn thiện chính sách pháp luật về quản lý chất thải nhựa
Quan điểm về thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn
Thứ nhất, phát triển kinh tế tuần hoàn là một xu hướng của phát triển bền vững vừa giúp đạt được cả hai mục tiêu, ứng phó với sự cạn kiệt tài nguyên đầu vào và tình trạng ô nhiễm môi trường trong phát triển ở đầu ra. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam phát triển quá hao tài nguyên và ô nhiễm môi trường nặng nề do chất thải gây ra như hiện nay, việc nghiên cứu đưa ra quan điểm thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn vào nghị quyết của Đảng là rất cần thiết và cấp bách. Trên cơ sở đó nghiên cứu xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng cho hình thành, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, thậm chí nghiên cứu xây dựng luật về thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Trong đó cần xác định rõ doanh nghiệp là động lực trung tâm, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng người dân tham gia việc thực hiện. Vài trò kiến tạo của Nhà nước thể hiện trong việc tạo ra một môi trường để kinh tế tuần hoàn phát triển. Bên cạnh đó, Quốc hội và Chính phủ cần có chính sách không chỉ khuyến khích, tạo điều kiện mà phải có những hỗ trợ cụ thể với việc phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong cộng đồng và doanh nghiệp trên thực tiễn.
Thứ hai, xây dựng pháp luật, phát triển kinh tế tuần hoàn phải gắn với yêu cầu về phát triển bền vững; yêu cầu về bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành.
Thứ ba, thực hiện phát triển kinh tế tuần hoàn cần tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, nhưng cũng phải phù hợp với thực tiễn phát triển của Việt Nam. Đó là cách tiếp cận phát triển kinh tế tuần hoàn theo nhóm ngành, sản phẩm, nguyên liệu hoặc vật liệu và cách tiếp cận theo quy mô kinh tế, thành lập các không gian địa lý. Bên cạnh đó, lộ trình cũng cần tiếp tục thực hiện các nội dung khác của kinh tế tuần hoàn, như khuyến khích năng lượng tái tạo, thúc đẩy sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, hoàn thiện và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn đã có tại Việt Nam.
Thứ tư, về hoàn thiện chính sách pháp luật về quản lý chất thải nhựa hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn cần dựa trên quan điểm coi chất thải nhựa là một loại tài nguyên. Phải có sự kết nối chặt chẽ từ chính sách, pháp luật đến thực tiễn các khâu đầu tư dự án sản xuất nhựa; sử dụng nhựa, tái chế nhựa, tái sử dụng nhựa theo chu trình khép kín không có chất thải nhựa ra bên ngoài. Việc trước mắt phải làm ngay là phải quản lý hiệu quả chất thải nhựa theo hướng tái chế, tái sử dụng chất thải nhựa. Về lâu dài phải phát triển nền kinh tế tuần hoàn. Còn việc loại bỏ các sản phẩm từ nhựa ra khởi đời sống, kinh tế ngay tại thời điểm này cần phải thận trọng, nếu thực hiện phải có lộ trình cụ thể rõ ràng, phải xác định rõ tiếp tục sản xuất loại nhựa nào, tiêu chuẩn chất lượng loại nhựa được giữ lại sản xuất; loại bỏ sản xuất những loại nhựa nào. Ví dụ: nhựa sử dụng một lần, … sản phẩm thay là sản phẩm nào, giá cả, có thân thiện môi trường không, các giai đoạn thực hiện loại bỏ, …
Hoàn thiện các chính sách pháp luật về quản lý chất thải nhựa hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn.
Thứ nhất, cần tiếp tục xây dựng và thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn, trong đó có chất thải nhựa đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 491/2018/QĐ-TTg ngày 7/5/2018. Trên cơ sở đó nghiên cứu bổ sung chi tiết hơn về nội dung quản lý chất thải nhựa trong chiến lược này hoặc xây dựng một chiến lược mới về phát triển ngành, trong đó có quản lý tổng hợp chất thải nhựa nhằm tạo sự kết nối chặt chẽ, đồng bộ từ các quy định pháp luật đến các nguồn lực tổ chức thực hiện phòng ngừa, phân loại, thu gom, vận chuyển đến xử lý chất thải nhựa.
Thứ hai, về việc phòng ngừa, giảm thiểu chất thải nhựa. Xuất phát từ quan điểm coi chất thải nhựa là một loại tài nguyên nên ngay từ khi chưa phát sinh chất thải nhựa. Cần hạn chế đầu tư các dự án về sản xuất các sản phẩm nhựa, đặc biệt nhựa sử dụng một lần. Nếu vẫn chấp nhận các dự án sản xuất nhựa hoặc sản xuất các sản phẩm từ nhựa thì các dự án này phải đầu tư công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; được đánh giá tác động môi trường đầy đủ; nghiên cứu quy định sản xuất nhựa và các sản phẩm từ nhựa thân thiện môi trường; nghiên cứu các vật liệu thay thế các sản phẩm từ nhựa. Hạn chế sử dụng các sản phẩm dùng một lần, vật liệu đóng gói, không cung cấp miễn phí các đồ dùng một lần trong khách sạn, nhà hàng, cửa hàng mua sắm; giới hạn không gian trống sau khi đóng gói và số lớp đóng gói trong hộp; các gia đình phải mua các túi chỉ để đựng rác theo phân loại, tập kết ở nơi thu gom, nên hạn chế được lượng rác thải.
Thứ ba, về việc phân loại chất thải nhựa tại nguồn. Pháp luật hiện hành đã quy định về phân loại chất thải rắn thông thường trong Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, lại chưa quy định cụ thể các yếu tố, cơ sở vật chất đồng bộ bảo đảm cho việc phân loại đó. Ví dụ, việc phân loại, lưu giữ và vận chuyển rác thải hiện nay, cơ sở tham gia thu gom, vận chuyển rác thải chưa có các thùng chuyên dụng để đựng các loại chất thải đã phân loại như Điều 15 Nghị định 38/2015/NĐ-CP. Hơn nữa, ý thức người dân, tổ chức thu gom vận chuyển rác thải vẫn còn chưa tư duy theo hướng chất thải là một loại tài nguyên; kinh phí, nguồn lực, phương tiện thu gom phù hợp, cách thức lộ trình thực hiện…) cũng chưa được hướng dẫn cụ thể rõ ràng nên khó/không thể thực hiện hiệu quả phân loại rác thải ở nhiều nơi. Do vậy, chúng tôi cho rằng, bên cạnh quy định về phân loại chất thải rắn thông thường cần quy định cụ thể về trách nhiệm trang bị các thùng, xe chứa đủ tiêu chuẩn để phân loại, lưu giữ, vận chuyển chất thải rắn thông thường,… Ví dụ thùng đựng nhóm hữu cơ dễ phân huỷ (nhóm thức ăn thừa, lá cây, rau, củ, quả, xác động vật); thùng đựng nhóm có khả năng tái sử dụng, tái chế (nhóm giấy, nhựa, kim loại, cao su, ni-lông, thuỷ tinh), … Quá trình này phải đồng bộ với hệ thống tái chế chất thải, đánh giá chất lượng chất thải sau tái chế và thị trường tiêu thụ các sản phẩm tái chế. Ngoài ra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể rõ ràng về kinh phí, nguồn lực, phương tiện thu gom phù hợp, cách thức, lộ trình thực hiện phân loại chất thải rắn thông thường tại nguồn.
Về chế tài áp dụng với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức không phân loại chất thải tại nguồn, pháp luật hiện hành quy định rất chặt chẽ tuỳ theo mức độ vi phạm và thiệt hại xảy ra mà các chủ thể này có thể phải chịu trách nhiệm hành chính, hình sự hoặc trách nhiệm dân sự, còn các cán bộ, công chức vi phạm quy định này có thể chịu cả trách nhiệm kỷ luật. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy rất nhiều cá nhân, hộ gia đình, tổ chức vi phạm các quy định về phân loại chất thải nhưng không bị xử lý về hành vi này. Tội vi phạm các quy định về quản lý chất thải nguy hại được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 đến nay, nhưng chưa một cá nhân, tổ chức nào bị xét xử về tội này (trong bối cảnh nhiều vụ vi phạm các quy định về quản lý chất thải gây ô nhiễm môi trường lớn như Vedan, Formosa, …. vẫn diễn ra). Thậm chí đa số các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định về phân loại chất thải vẫn không bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường còn nhiều bất cập (khó khăn trong xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại; cách thức xác định thiệt hại môi trường, sức khoẻ, tính mạng, tài sản, …). Mặt khác, việc không phân loại chất thải ngay tại nguồn cũng dẫn tới ảnh hưởng xấu đến môi trường xung quanh, cảnh quan và hiệu quả tái chế, tái sử dụng các chất thải không cao.
Do vậy, cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn về vấn đề này. Theo đó, tuỳ theo mức độ vi phạm pháp luật, cá nhân, tổ chức sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý thích đáng, kể cá trách nhiệm hình sự. Về xử phạt vi phạm hành chính với hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải của các cá nhân, tổ chức cần bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình này. Đề cao trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền, trong đó cần lưu ý đến vai trò của Chủ tịch UBND cấp xã và Trưởng Công an cấp xã phù hợp với quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2021, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu, Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Về trách nhiệm hình sự, bổ sung quy định không chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự với hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải nguy hại mà còn áp dụng cả với hành vi vi phạm về quản lý chất thải rắn thông thường trong trường hợp mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Đặc biệt là cần phải có biện pháp để áp dụng hiệu quả các quy định này trên thực tiễn. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường, cần nghiên cứu bỏ quy định về xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại,…
Thứ tư, về việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, nhất là chất thải nhựa. Quy định về thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường cần phải có sự đồng bộ với quy định về phân loại chất thải rắn thông thường. Hơn nữa, về giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn thông thường, mặc dù Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định rõ về việc ký hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển xử lý chất thải rắn sinh hoạt và giá dịch vụ được xác định dựa trên chi phí bỏ ra để thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải cũng như xác định rõ chủ nguồn thải phải nộp các loại phí trên. Tuy nhiên, thực tiễn quy định về mức thu phí tại các địa phương còn khá thấp, nhưng vẫn không thu được đủ. Điều này dẫn tới hằng năm nhà nước phải bỏ ra rất nhiều tiền ngân sách để bù cho thiếu hụt này, ảnh hưởng đến cân đối thu chi của địa phương. Do vậy cần sửa quy định về giá phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn thông thường và phương thức thu dựa trên mục tiêu giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo sức ép để các doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý chất thải rắn đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; hoặc đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý chất thải rắn chuyên nghiệp có hiệu quả xử lý các chất thải rắn phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường mang lại lợi ích kinh tế cao.
Thứ năm, về xử lý chất thải nhựa. Pháp luật hiện hành quy định rõ chất thải rắn thông thường có thể xử lý bằng nhiều cách như: đốt, chôn lấp, tái chế. Tuy nhiên, nếu quan niệm nhựa là một loại tài nguyên thì cần ưu tiên việc tái chế, tái sử dụng chất thải. Hiện nay, pháp luật hiện hành vẫn chưa coi phế liệu là một loại chất thải, Nhà nước vẫn cho phép nhập khẩu dẫn tới nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy định này để nhập khẩu chất thải gây ô nhiễm môi trường, trong khi đó, nguồn phế liệu có thể tái chế, tái sử dụng được trong nước rất lớn, nhưng cơ sở, chủ thể đứng ra thu mua thường là các hộ gia đình, cá nhân thu gom nhỏ lẻ, manh mún, thậm chí có những làng nghề chuyên thực hiện việc xử lý các phế liệu này với công nghệ thô sơ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Do vậy, Nhà nước cần quy định cụ thể hơn về quản lý hoạt động kinh doanh phế liệu, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp và chủ thể có thẩm quyền trong quản lý các cơ sở tái chế chất thải rắn thông thường. Các cơ sở này phải đáp ứng được các điều kiện về môi trường (ĐTM) hoặc kế hoạch bảo vệ môi trường (KBM) tuỳ theo quy mô,…) hướng tới xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh tái chế chất thải với dây chuyền công nghệ hiện đại, quy mô lớn. Để thực hiện việc này được hiệu quả, Nhà nước thực hiện ưu đãi về thuế, công nghệ, thị trường, vốn để thúc đẩy tư nhân đầu tư công nghệ hiện đại, thu hút tư nhân đầu tư kinh danh tái chế, tái sử dụng chất thải rắn thông thường.
Thứ sáu, cần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương trong quản lý chất thải nhựa. Kiện toàn về đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia quản lý nhà nước về vấn đề này theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả… Theo quy định tại Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ, trách nhiệm quản lý nhà nước về chất thải nhựa thường chủ yếu tập trung cho Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các cơ quan này chủ yếu thực hiện quản lý chung, trong khi vi phạm các quy định về quản lý chất thải lại từ cơ sở cấp xã. Theo đó cần nâng cao vai trò của chính quyền địa phương, đặc biệt là UBND cấp xã, thanh tra môi trường, cảnh sát môi trường trong phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải rắn thông thường trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả quản lý chất thải rắn thông thường, góp phần kiểm soát hiệu quả ô nhiễm môi trường hướng tới phát triển bền vững.
Thứ bảy, đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức của mọi người về ý nghĩa của việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nhựa trên cơ sở coi chất thải này là một loại tài nguyên để hướng tới mỗi người dân thực sự là một nhân viên môi trường như kinh nghiệm của Nhật Bản. Bên cạnh đó, nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể xã hội, của cộng đồng, truyền thông, báo chí trong phòng ngừa, giảm thiểu chất thải, giám sát, phát hiện, tố cáo các hành vi vi phạm các quy định về quản lý chất thải nhựa.
Thứ tám, tăng cường các nguồn lực như: tài chính, khoa học công nghệ, … cho hoạt động quản lý chất thải nhựa. Hiện nay, các nhà khoa học thế giới và Việt Nam đã nghiên cứu ra nhiều công nghệ để tái chế, tái sử dụng chất thải. Ví dụ: công nghệ tái chế nhựa thành các vật dụng mới,… Tuy vậy, Nhà nước cần tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện đầu tư nghiên cứu khoa học để sáng tạo tìm ra các công nghệ có thể tái chế, tái sử dụng chất thải, đặc biệt nghiên cứu ứng dụng thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư vào quá trình này nhằm tiết kiệm chi phí cho việc chôn lấp hoặc tiêu huỷ chất thải kiểm soát ô nhiễm môi trường,…
Thứ chín, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quản lý chất thải rắn thông thường trên cơ sở coi chất thải nhựa là một loại tài nguyên. Vấn đề quản lý chất thải thông thường kém hiệu quả ở Việt Nam hiện nay, nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã trải qua cách đây 40 đến 45 năm nên thực hiện hợp tác với các quốc gia trong khu vực và quốc tế sẽ giúp Việt Nam tận dụng được kinh nghiệm trong quản lý chất thải rắn thông thường, tận dụng được nguồn vốn tài trợ, vốn vay của các quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy quản lý chất thải nhựa. Bên cạnh đó, hiện nay nhiều công nghệ tái chế, xử lý chất thải rắn thông thường đã được các quốc gia chế tạo thành công. Ví dụ, Thuỵ Điển hiện nay với công nghệ tái chế rác thải hiện đại không chỉ giúp tái chế chất thải trong nước, thậm chí còn nhập khẩu rác thải ở nước ngoài về để tái chế và tạo được nguồn thu từ việc nhập khẩu đó.
Việt Nam được mệnh danh là “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu” nhưng qua hơn 30 năm đổi mới, mở cửa phát triển kinh tế theo chiều rộng đã làm cho tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam ngày càng bị suy giảm và cạn kiệt. Thực tế môi trường Việt Nam những năm trở lại đây ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng mà nguyên nhân chủ yếu là do chất thải của con người gây ra. Trong khi đó,chất thải rắn thông thường, chất thải nhựa mang trong mình giá trị kinh tế, xã hội và môi trường to lớn thì hằng ngày hằng giờ bị con người bỏ đi vô cùng lãng phí. Do vậy, việc quan niệm chất thải rắn thông thường, chất thải nhựa là một loại tài nguyên và đổi mới việc xây dựng thực hiện pháp luật về quản lý chất thải nhựa theo hướng này trong thời gian tới ở Việt Nam là đặc biệt cần thiết, để sử dụng hợp lý, tiết kiệm hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển công nghiệp môi trường, giữ gìn, bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.
TS. Bùi Đức Hiển
Phòng Luật Tài nguyên và Môi trường,
Viện Nhà nước và Pháp luật
(Theo Môi trường & Đô thị điện tử)
Ảnh: Chất thải nhựa không được phân loại và tái chế sẽ trở thành gánh nặng cho môi trường. Ảnh: ITN