Công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) ở nước ta còn nhiều bất cập. Do vậy, việc đánh giá tình hình quản lý CTRSH nhất là việc phân loại chất thải tại nguồn, công nghệ xử lý, tái chế, việc thu phí CTRSH là hết sức cần thiết.
Công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa chú trọng đến các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải; công tác triển khai các quy hoạch quản lý CTR tại các địa phương còn chậm; việc huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng khu xử lý, nhà máy xử lý CTR còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc đánh giá tình hình quản lý CTRSH tại Việt Nam hiện nay, nhất là việc phân loại chất thải tại nguồn, công nghệ xử lý, tái chế, việc thu phí CTRSH là hết sức cần thiết theo đúng tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường 2020.
Thực trạng quản lý CTRSH tại Việt Nam
Hiện nay trên cả nước khối lượng CTRSH phát sinh hơn 61.000 tấn/ngày, trong đó khối lượng phát sinh tại khu vực đô thị hơn 37.000 tấn/ngày, khu vực nông thôn hơn 24.000 tấn/ngày. Về cơ bản, thành phần của CTRSH bao gồm chất vô cơ (các loại phế thải thuỷ tinh, sành sứ, kim loại, giấy, cao-su, nhựa, túi nilon, vải, đồ điện, đồ chơi…), chất hữu cơ (cây cỏ loại bỏ, lá rụng, rau quả hư hỏng, đồ ăn thừa, xác súc vật, phân động vật…) và các chất khác. CTRSH đô thị có tỷ lệ hữu cơ vào khoảng 54 – 77%, chất thải có thể tái chế (thành phần nhựa và kim loại) chiếm khoảng 8 – 18%. Chất thải nhựa và túi nilon hiện đang là vấn đề đáng lo ngại trong quản lý CTRSH do thói quen sử dụng của người dân. Hiện nay phần lớn CTRSH chưa được phân loại tại nguồn. Việc phân loại tại nguồn phát sinh mới chỉ được thực hiện tại một số địa phương; một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thực hiện vẫn mang tính khuyến khích, chưa có tính cưỡng chế cao. Nhiều địa phương thực hiện thí điểm tại một số khu vực, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, Cần Thơ đã triển khai thực hiện trên quy mô lớn…. Theo đó, chất thải hầu hết được phân loại thành chất thải có thể đốt được, chất thải có thể tái chế và các loại chất thải khác… Tuy nhiên, việc phân loại tại nguồn này tùy thuộc vào công nghệ xử lý đang áp dụng tại địa phương. Đánh giá chung cho thấy việc phân loại tại nguồn chưa đạt được kết quả cao do trên thực tế, các chất thải tái chế thường được các hộ gia đình, người đi thu gom, ve chai thu nhặt và bán tái chế trước khi các đơn vị thu gom, vận chuyển có thể thu hồi. Mặt khác, hiện nay các địa phương chưa có thiết bị, phương tiện thu gom riêng đối với từng loại chất thải được phân loại. Do vậy, trong nhiều trường hợp chất thải được vận chuyển chung trong cùng thiết bị, phương tiện, dẫn đến việc phân loại tại nguồn chưa có hiệu quả. Trong nhiều trường hợp chất thải được phân loại rác tại nguồn trong khi cơ sở xử lý chỉ áp dụng một phương pháp xử lý chung nên hiệu quả của việc phân loại tại nguồn không cao.
Hiện nay, việc thu gom vận chuyển được thực hiện khác nhau giữa đô thị và nông thôn, giữa các địa phương và thậm chí giữa các vùng trong cùng một địa phương. Tỷ lệ thu gom CTRSH khu vực đô thị của các địa phương đạt từ 62% đến hơn 90%, một số địa phương đạt tỷ lệ thu gom cao như Bình Dương, Đồng Nai, Thái Bình, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội. Theo Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, mục tiêu đến năm 2025 thì 90% tổng lượng CTRSH phát sinh tại các đô thị được thu gom và xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường. Như vậy, có thể thấy mục tiêu thu gom chất thải rắn đô thị hiện nay có thể đáp ứng mục tiêu đặt ra. Tỷ lệ thu gom CTRSH khu vực nông thôn của các tỉnh/thành phố chưa có số liệu thống kê đầy đủ, tuy nhiên cũng có một vài tỉnh đã thống kê như Thanh Hóa (83,56%), Đồng Nai (trên 90%). Một số địa phương có tỷ lệ thu gom thấp có thể kể đến như Điện Biên (12.5%), Lâm Đồng (22.5%), Kiên Giang (27%), Hà Giang (27.4%).
Công nghệ xử lý CTRSH phổ biến là chôn lấp còn lại là đốt, ủ phân hữu cơ và tái chế. Các công nghệ xử lý CTRSH đang áp dụng ở nước ta (kể cả các công nghệ nước ngoài) ngày càng đa dạng nhưng hiệu quả thực tế chưa được tổng kết, đánh giá một cách đầy đủ. Một số công nghệ trong nước đang triển khai áp dụng bước đầu đã đem lại hiệu quả nhất định. Các công nghệ được nghiên cứu trong nước hầu hết do các doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm nên việc hoàn thiện công nghệ cũng như triển khai ứng dụng trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn. Các công nghệ nước ngoài khi sử dụng tại Việt Nam gặp một số khó khăn do chất thải rắn phần lớn chưa được phân loại tại nguồn, độ ẩm cao, điều kiện thời tiết nhiệt đới, lượng chất thải tiếp nhận thấp hơn công suất thiết kế hoặc không ổn định, đầu tư khá cao dẫn đến chi phí xử lý cao.
Phần lớn các bãi chôn lấp hiện tiếp nhận CTRSH chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm nhiều diện tích đất, phát sinh lượng lớn nước rỉ rác; nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe, hoạt động sản xuất của cộng đồng xung quanh.
Nguyên nhân của những hạn chế nói trên đó là việc phân loại chất thải tại nguồn chưa mang tính bắt buộc, các chương trình phân loại tại các địa phương còn mang tính thử nghiệm, chưa đồng bộ, chưa được chính thức hóa.
Việc thu phí vệ sinh (giá dịch vụ) CTRSH đối với các hộ gia đình, cá nhân được thu theo hộ gia đình hoặc theo nhân khẩu dẫn đến việc không khuyến khích người dân giảm lượng chất thải phát sinh và phải xử lý.
Việc xây dựng các cơ sở xử lý chất thải hiện đại đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, nhiều địa phương không đủ nguồn vốn đầu tư hoặc đầu tư chưa tương xứng; trong khi đó, việc thúc đẩy xã hội hóa công tác đầu tư cơ sở xử lý CTRSH còn chậm.
Nhiều địa phương còn chưa chủ động trong công tác triển khai xây dựng các cơ sở xử lý chất thải, dẫn đến tình trạng quá tải tại các cơ sở xử lý hiện hữu, gây ô nhiễm môi trường.
Việc quy hoạch, xác định vị trí, địa điểm xây dựng cơ sở xử lý chất thải gặp khó khăn do người dân phản đối; việc tổ chức triển khai quy hoạch tại các địa phương còn chậm, thiếu nguồn lực để thực hiện.
Nhận thức của một bộ phận người dân trong việc phân loại, lưu giữ, thu gom, vận chuyển CTRSH còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi, người dân chưa tích cực tham gia vào các hoạt động phân loại tại nguồn, chưa đóng phí vệ sinh môi trường đầy đủ.
Ý thức của một số doanh nghiệp còn hạn chế, thậm chí một số đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH là đơn vị gây ô nhiễm môi trường trong quá trình vận chuyển, xử lý CTRSH.
Các giải pháp về cơ chế chính sách
Ngay sau khi có Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 3/2/2019 của Chính phủ, trong đó giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là đầu mối thống nhất quản lý Nhà nước về chất thải rắn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhanh chóng ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện phương án thống nhất quản lý nhà nước và triển khai các hoạt động sau.
– Rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;
– Kiểm tra, đánh giá công tác quản lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước;
– Tổ chức các hội thảo, hội nghị về công nghệ xử lý, mô hình quản lý đối với chất thải rắn sinh hoạt với sự tham gia của các Bộ, ngành, địa phương và các chuyên gia, các nhà khoa học;
– Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội về công tác quản lý chất thải rắn.
Dựa trên chức năng nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn, gồm ba nội dung chính sau:
Thứ nhất: Xây dựng và trình ban hành Luật Bảo vệ môi trường
Luật Bảo vệ môi trường đã đưa ra những quy định mới về quản lý CTRSH, cụ thể như sau:
Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường giúp Chính phủ làm đầu mối thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường quản lý chất thải rắn, trong đó có CTRSH; hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; Đưa ra quy định về kinh phí thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH được tính dựa trên khối lượng hoặc thể tích chất thải phát sinh; đưa ra quy định yêu cầu phân loại CTRSH tại nguồn thành ba loại: chất thải rắn có khả năng tái chế, chất thải thực phẩm và chất thải rắn sinh hoạt thông thường khác; đưa ra quy định Nhà nước ưu đãi về thuế, phí, vay vốn đối với các hoạt động xây dựng cơ sở tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt để thúc đẩy các hoạt động xã hội hóa trong công tác quản lý CTRSH hiện nay.
Thứ hai: Trình ban hành Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 1/12/2020
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 01/12/2020 về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý chất thải rắn, trong đó giao trách nhiệm cho các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý chất thải rắn hiện nay đồng thời chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác quản lý chất thải rắn. Chỉ thị đã giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương một số trách nhiệm sau:
Chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trên địa bàn.
Rà soát, đánh giá công nghệ xử lý rác thải hiện có trên địa bàn, yêu cầu các cơ sở xử lý phải có lộ trình đổi mới công nghệ xử lý chất thải đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường, thực hiện trước năm 2023.
Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ khẩn trương đầu tư hoặc đưa vào vận hành các nhà máy xử lý rác thải theo hướng công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; phấn đấu đến hết năm 2025 giảm tỷ lệ rác thải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp xuống dưới 20%.
Nghiên cứu, thí điểm tổ chức đấu thầu tập trung để lựa chọn các đơn vị cung cấp dịch vụ xử lý rác thải đáp ứng các tiêu chí về công nghệ, kinh tế, xã hội và môi trường; bảo đảm công khai, minh bạch trong chi trả dịch vụ xử lý rác thải.
Thứ ba: Xây dựng Nghị định và Thông tư hướng dẫn chi tiết Luật Bảo vệ môi trường
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng dự thảo Nghị định và Thông tư hướng dẫn chi tiết Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có một số nội dung đáng chú ý về quản lý CTRSH như sau:
Đưa ra quy định các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt với tổng khối lượng dưới 300 kg/ngày được lựa chọn hình thức quản lý chất thải rắn sinh hoạt như hộ gia đình, cá nhân; các trường hợp có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt với tổng khối lượng dưới 300 kg/ngày có trách nhiệm ký hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý; thanh toán toàn bộ chi phí theo hợp đồng dịch vụ.
Đưa ra quy định chủ đầu tư và thực hiện dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt phải tuân thủ các yêu cầu sau: Là chủ công nghệ hoặc có hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định. Trường hợp sử dụng công nghệ xử lý có xuất xứ từ các nước châu Âu, các nước thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển G7 thì khí thải, nước thải cần đáp ứng các tiêu chuẩn tương ứng của các nước nêu trên. Phải hoàn trả mặt bằng và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ chi phí đầu tư xây dựng, chi phí tháo dỡ công trình và các chi phí khác có liên quan trong trường hợp không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong quá trình vận hành cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo hợp đồng đã ký với chính quyền địa phương. Hướng dẫn nguyên tắc thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH từ hộ giá đình, cá nhân theo khối lượng hoặc thể tích chất thải, góp phần giảm khối lượng chất thải phát sinh và tăng tỷ lệ thu hồi, tái chế chất thải. Hướng dẫn về phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH, định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt để giải quyết các tồn tại, bất cập hiện nay đối với vấn đề này.
Nguyễn Thượng Hiền
Phó Tổng cục trưởng – Tổng Cục Môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường